Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình vừa được Chính phủ ban hành. Để đạt được mục tiêu đảm bảo tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 từ 6,5 - 7%, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho rằng, trong 2 năm 2022 - 2023, chương trình hỗ trợ và phục hồi kinh tế được thực hiện với mục tiêu đảm bảo phục hồi và phát triển nhanh trên cơ sở thích ứng an toàn với dịch bệnh. Nhằm hiểu rõ hơn về việc triển khai chương trình này, phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng.
Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội vừa được Chính phủ phê duyệt. Thưa Bộ trưởng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được Chính phủ giao xây dựng chương trình này như thế nào?
Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội được đưa ra thảo luận tại kỳ họp bất thường của Quốc hội vào cuối năm 2021. Trước đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thiện dự thảo chương trình trình Chính phủ, tập trung vào các nhóm trọng tâm: tập trung mở cửa nền kinh tế gắn với phòng, chống dịch theo Nghị quyết số 128-NQ/CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ ban hành quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”.
Việc mở cửa sẽ chắc chắn, an toàn, có lộ trình và phù hợp với chiến lược chống dịch và khả năng tiêm vaccine cũng như nguồn cung thuốc điều trị, trang thiết bị y tế; tăng tính chủ động cho doanh nghiệp. Đồng thời, hỗ trợ an sinh xã hội và tạo việc làm cho người lao động.
Hỗ trợ phục hồi cho doanh nghiệp, gồm hỗ trợ sức chống chịu đặc biệt ở một số lĩnh vực bị tác động mạnh mẽ. Cùng đó, phát triển kết cấu hạ tầng, khuyến khích đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP); đẩy mạnh đầu tư công tập trung cho hạ tầng chiến lược, trọng điểm quốc gia. Bên cạnh đó, tiếp tục cải cách thể chế, thủ tục hành chính, môi trường đầu tư kinh doanh; có chính sách quản trị rủi ro, gắn với ổn định kinh tế vĩ mô.
Đối với Việt Nam, gói hỗ trợ phải có quy mô đủ lớn, thời gian phù hợp, bảo đảm kinh tế vĩ mô, kết hợp linh hoạt chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ; gắn kết chặt chẽ với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chính sách tái cơ cấu nền kinh tế; tính toán đến cả những tác động trong ngắn hạn, dài hạn. Đồng thời, hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm khả thi, hiệu quả... để nền kinh tế phục hồi, phát triển nhanh theo tinh thần thích ứng an toàn, linh hoạt, phòng chống dịch hiệu quả, bảo đảm thực hiện mục tiêu tăng trưởng trong giai đoạn 2020 - 2025 đã đề ra.
Chương trình hỗ trợ và phục hồi kinh tế phải đảm bảo sự phục hồi và phát triển nhanh trên cơ sở thích ứng an toàn với dịch bệnh, phải đảm bảo sự chủ động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp trong mọi điều kiện của dịch bệnh. Ngoài ra, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng giai đoạn 2021 - 2025 từ 6,5 - 7%, ổn định kinh tế vĩ mô cũng như các cân đối lớn của nền kinh tế, nuôi dưỡng và củng cố các nguồn thu. Bên cạnh đó, đảm bảo an sinh xã hội của người dân, người nghèo, các đối tượng yếu thế.
Bộ trưởng có thể chia sẻ những kinh nghiệm trong việc triển khai gói hỗ trợ kinh tế trên thế giới như thế nào?
Với các nước trên thế giới, các gói hỗ trợ đưa ra rất lớn, quyết định rất nhanh, bất chấp kỷ luật tài chính, chấp nhận tăng nợ công... qua đó khôi phục kinh tế rất nhanh. Nổi bật như đầu tư công của các nước đã nhanh chóng khôi phục sau khi dịch COVID-19 được khống chế tại Mỹ và một số quốc gia.
Về tài khóa, các nước đều tăng cho y tế, hỗ trợ các hộ gia đình khó khăn, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, cấp phát tiền mặt, miễn giảm thuế phí đối với những lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh; đầu tư cho hạ tầng.... Về tín dụng, nhìn chung các nước hỗ trợ lãi suất, nới lỏng quy định cho vay. Hỗ trợ dòng tiền cho các lĩnh vực được ưu tiên để giúp kinh tế nhanh chóng phục hồi và duy trì đà tăng trưởng trong dài hạn.
Giai đoạn 2008 - 2009, Việt Nam từng có gói kích cầu đầu tư nhưng được đánh giá chưa hiệu quả. Trong triển khai chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội sắp tới, chúng ta cần rút kinh nghiệm từ các bất cập của giai đoạn trước như thế nào, thưa Bộ trưởng?
Trong quá trình xây dựng chính sách, chúng tôi đã thẳng thắn nhìn vào kết quả đạt được và những bất cập của gói kích cầu đầu tư những năm 2008-2009. Từ đó không vấp phải một lần nữa, phát huy được những mặt tốt, tránh những khiếm khuyết của chương trình trước đây. Khi đó, chúng ta tập trung chủ yếu vào thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, kích cầu đầu tư, tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội. Đây là 3 mục tiêu lớn nhất của chương trình lúc đó.
Quy mô khi đó nước ta dành ra 122 nghìn tỷ đồng tương ứng với 6,9 tỷ USD. Riêng năm 2009, trong số 122 nghìn tỷ đồng đó, chúng ta đã tập trung thực hiện 100,6 nghìn tỷ đồng, tương ứng với 5,7 tỷ USD và tương ứng với 5,6% GDP lúc đó (khoảng 100 tỷ USD). Các kết quả tích cực đã giúp đất nước vượt qua được khủng hoảng và là một trong số ít những nước có tăng trưởng dương. Năm 2008, chúng ta tăng trưởng 5,7%, vào năm 2009 chúng ta tăng trưởng 5,4%.
Dù tác động của gói kích thích năm 2009 giúp nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, đạt được mức tăng trưởng dương vào thời điểm đó, nhưng cũng để lại những hệ lụy lớn khi chính sách thực hiện thiếu đồng bộ, thiếu giám sát. Mục tiêu của gói chính sách đó là kích cầu đầu tư, sản xuất, an sinh xã hội, nhưng không kiểm soát tốt, thiếu đồng bộ giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, nên khi hỗ trợ lãi suất lớn, tiền không chảy vào sản xuất, mà chảy vào chứng khoán, bất động sản… Hậu quả là lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô.
Theo tôi, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung về phía cung, doanh nghiệp rất khó khăn về đầu ra, chúng ta hỗ trợ cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận được đầu ra. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ lãi suất thiếu đồng bộ với các chính sách tiền tệ và các chính sách tài khóa khác nên đã làm giảm hiệu quả, dẫn đến trục lợi chính sách.
Ví dụ như vay vốn rồi gửi ngân hàng khác để hưởng chênh lệch. Tiền không chảy vào sản xuất mà chảy vào chứng khoán, bất động sản do chúng ta kiểm soát không chặt chẽ. Điều này gây ra nhiều ảnh hưởng về ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát tăng cao trong thời kỳ này. Năm 2010, lạm phát của chúng ta là 9,2% còn năm 2011 là 18,6%.
Việc đầu tư dẫn đến dàn trải, nợ đọng, lãng phí, đình hoãn và nhiều dự án đến năm 2011 chúng ta dừng lại và cho đến nay không giải quyết được hậu quả. Nhiều gói hỗ trợ lãi suất đến nay chưa quyết toán được và để lại các hệ lụy rất lớn.
Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá của chúng ta thiếu sự chặt chẽ. Chính sách thực hiện trên nền kinh tế vĩ mô thiếu ổn định của giai đoạn trước. Tăng trưởng tín dụng luôn ở mức cao; các chính sách hỗ trợ thì chưa sát thực tiễn. Những rào cản, điều kiện cho vay vốn của doanh nghiệp cũng chưa được công khai, minh bạch.
Chính vì vậy, gói kích thích kinh tế giai đoạn tới phải thực hiện đồng bộ, hiệu quả, kịp thời, bảo đảm ổn định. Tôi cho rằng hỗ trợ phải có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số ngành, lĩnh vực có khả năng phục hồi; hỗ trợ cho dòng tiền và ổn định tài chính và huy động các nguồn lực quốc tế khác. Đặc biệt, phải có kiểm soát rủi ro, có giám sát chặt chẽ trong thực hiện.
Chúng ta phải có chương trình tổng thể về phục hồi kinh tế với quy mô đủ lớn, đủ khả năng vay-trả và khả năng hấp thụ của nền kinh tế. Bây giờ chúng ta giải ngân đầu tư công còn chưa hết, vậy sắp tới có một gói kích cầu đầu tư thì phải làm sao giải ngân kịp trong hai năm 2022 - 2023. Đây cũng là một thách thức đang đặt ra.
Xin cám ơn Bộ trưởng!