Bàn giải pháp ổn định thị trường, thúc đẩy xuất khẩu gạo

Ngày 4/3, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức cuộc họp về tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long.

Chú thích ảnh
Bốc xếp gạo xuất khẩu qua cảng Sài Gòn. Ảnh tư liệu: Đình Huệ/TTXVN

Theo Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy, thị trường xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, cần có các giải pháp ngắn hạn và dài hạn để góp phần bình ổn thị trường, duy trì và phát triển mạnh mẽ thị trường xuất khẩu. Các giải pháp cần thận trọng, chắc chắn nhưng phải kịp thời, nhanh nhạy để hạn chế tối đa các tác động tiêu cực, đặc biệt là đối với người nông dân, cộng đồng doanh nghiệp và các đối tác xuất khẩu.

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho biết, sau hội nghị này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tổng hợp thông tin, xây dựng và trình Chính phủ một công điện về việc điều hành đảm bảo cân đối cung cầu lúa gạo trước diễn biến thị trường thế giới và trong nước.

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, khối lượng xuất khẩu gạo tháng 2/2025 ước đạt 560.000 tấn với giá trị đạt 288,2 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo 2 tháng đầu năm 2025 đạt 1,1 triệu tấn với 613 triệu USD, tăng 5,9% về khối lượng nhưng giảm 13,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.

Hai tháng đầu năm 2025, giá xuất khẩu gạo trung bình ước đạt 553,6 USD/tấn, giảm 18,3% so với cùng kỳ. Trong những ngày đầu tháng 3/2025, giá gạo xuất khẩu ở mức 310 USD/tấn gạo 100% tấm; gạo 5% là 393 USD/tấn; gạo 25% tấm 367 USD/tấn.

Về chủng loại gạo xuất khẩu, gạo trắng chiếm khoảng 71%, giá trung bình từ 523 - 540 USD/tấn chủ yếu xuất khẩu sang Philippines, Indonesia, và châu Phi. Gạo thơm như Jasmine, Đài thơm, ST24, ST25 chiếm 19%, giá từ 640-700 USD/tấn, chủ yếu sang EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản. Gạo nếp chiếm 6% xuất khẩu sang Trung Quốc, Philippines và một số nước Đông Nam Á khác. Còn lại là gạo Japonica và gạo đặc sản khác.

Dự báo về nguồn cung, ông Ngô Hồng Phong - Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, diện tích gieo cấy lúa năm 2025 dự kiến đạt 7,03 triệu ha, giảm 70.000 ha so với năm 2024. Nguyên nhân chủ yếu do chuyển đổi đất trồng lúa sang các mục đích phi nông nghiệp và các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn. Tuy nhiên, năng suất trung bình dự kiến tăng lên mức 61,3 tạ/ha, giúp sản lượng lúa đạt 43,1 triệu tấn, giảm 170.000 tấn so với năm 2024.

Với 43,1 triệu tấn, tương đương khoảng 27,4 triệu tấn gạo (sau chế biến và trừ hao tổn thất). Trong đó, sản lượng xuất khẩu dự kiến từ 6-6,5 triệu tấn.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhận định, nhu cầu nhập khẩu gạo trên toàn cầu vẫn có khả năng duy trì cao. Việt Nam có ưu thế gạo thơm và chất lượng cao được ưa chuộng tại các thị trường cao cấp như EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Nguồn cung trong nước cơ bản đảm bảo và thời tiết thuận lợi tại một số vùng trồng chính.

Tuy nhiên, gạo Việt Nam chịu sự cạnh tranh gia tăng trên thị trường quốc tế. Bởi Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo trắng từ tháng 9/2024 tạo áp lực lớn lên các quốc gia xuất khẩu khác, đặc biệt là gạo trắng cấp thấp. Gạo giá rẻ từ Pakistan và Myanmar tiếp tục chiếm ưu thế ở các thị trường nhạy cảm về giá như châu Phi, Trung đông. Gạo thơm Thái Lan vẫn duy trì vị thế cao cấp, gây áp lực cạnh tranh trong phân khúc gạo chất lượng cao… Trong khi đó, chi phí sản xuất lúa gạo tăng cao.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân đánh giá, năm 2024 ghi nhận thành công rất lớn trong hoạt động xuất khẩu gạo với sản lượng đạt kỷ lục trên 9 triệu tấn, giá gạo xuất khẩu cũng đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, từ cuối năm 2024, xu hướng giá gạo xuất khẩu đã có sự điều chỉnh rất mạnh. 

Theo Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân, trong câu chuyện xuất khẩu gạo, việc tìm kiếm thị trường mới bên cạnh duy trì các thị trường truyền thống đã được triển khai thì hoạt động này cần tiếp tục đẩy mạnh. Gắn với đó là sự điều chỉnh cơ cấu, chủng loại gạo, đặc biệt là cần tập trung vào gạo chất lượng cao.

Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân đánh giá, Việt Nam đã có sự thay đổi lớn trong việc kiểm soát vấn đề xuất khẩu gắn liền với sản xuất chế biến. Việc này đã được triển khai trong năm 2024 và kỳ vọng sẽ có sự chuyển biến rõ rệt trong năm 2025.

Từ tình hình thực tế, Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) Đỗ Hà Nam kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp tiếp cận được vốn, có khả năng trữ hàng, từ đó chủ động hơn về giá hàng hóa. Ngân hàng tăng hạn mức cho các doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp cung ứng gạo; kéo dài thời gian cho vay mua gạo để từ đó có thể bán cho các thị trường với giá tốt hơn cũng như kéo dài thời hạn trữ hàng, tránh tình trạng bán hàng ồ ạt. Lãi vay cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng cần ở mức thấp nhất có thể.

Bích Hồng (TTXVN)
Xuất khẩu gạo tăng hơn 23% về trị giá
Xuất khẩu gạo tăng hơn 23% về trị giá

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, từ ngày 1 - 15/1, Việt Nam xuất khẩu trên 268.700 tấn, trị giá gần 165,7 triệu USD, so với cùng kỳ năm ngoái về số lượng tăng 38,7% và về trị giá tăng 23,28%.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN