Đó là một đêm tháng 7 nóng nực, lênh đênh giữa Thái Bình Dương, tuần dương hạm USS Indianapolis vừa hoàn thành sứ mạng tuyệt mật: Chuyển giao lõi của một quả bom nguyên tử tới Tinian, một trong những hòn đảo thuộc quần đảo Northern Mariana. Quả bom được gọi với mật danh “Cậu bé” sau đó đã được thả xuống thành phố Hiroshima như một đòn cuối cùng hạ gục phát xít Nhật.
Đêm đó, con tàu đang hướng về phía tây tới Vịnh Leyte, Philippines, để nhập đội với tàu USS Idaho tại đây chuẩn bị cho một cuộc xâm chiếm Nhật Bản. Tàu USS Indianapolis di chuyển với vận tốc 32 knot, sau đó giảm xuống còn 17 knot. Lúc đó là giữa đêm, vào cuối phiên gác của thủy thủ 20 tuổi Edgar Harrell. Harrel và các đồng đội trên tàu đều không biết rằng họ đang bị bám theo. Sâu dưới lòng biển, tàu ngầm I-58 của Nhật Bản đang âm thầm chuẩn bị phóng đi 6 quả ngư lôi.
Hai quả trong đó đã bắn trúng con tàu. Quả đầu tiên phóng trúng tàu chỉ vài phút sau khi Harrel thiếp đi. Quả thứ hai nã vào phần trung tâm của tàu, trúng khoang nhiên liệu và kho đạn, gây ra phản ứng nổ dây chuyền xé tàu làm hai.
Harrel có thể nghe và cảm thấy nước tràn vào bên dưới boong, trong lúc trời tối đen. Vụ nổ đã làm điện sập nguồn và nguồn ánh sáng duy nhất là lửa. Quả ngư lôi đã kích nổ thùng chứa 3.500 gallon nhiên liệu máy bay tạo thành cột lửa khổng lồ cao hàng chục mét.
Harrel không hiểu chuyện gì đang xảy ra, chạy vội tới chỗ sĩ quan chỉ huy để nhận lệnh. Rồi anh nghe thấy giọng thuyền trưởng hô lớn: “Bỏ tàu! Bỏ tàu!”. Tuần dương hạm hạng nặng dài gần 200 mét bị tách thành nhiều phần, chìm xuống chỉ trong vòng 15 phút, để lại một lớp dầu đen loang đầy mặt biển.
Khoảng 800 trong tổng số gần 1.200 thủy thủ đã kịp rời tàu khi USS Indianapolis chìm xuống trong đêm 29, rạng sáng 30/7/1945.
Nhưng tàu chìm mới chỉ là khoảnh khắc bắt đầu của cơn ác mộng mà các thủy thủ tàu Indianapolis trải qua: Cơn ác mộng cá mập tấn công ghê sợ nhất trong lịch sử.
Khi mặt trời ló rạng vào sáng 30/7, những người sống sót nổi bập bềnh trên vùng nước. Phao cứu sinh không đủ. Những người còn sống tìm kiếm những thi thể nổi trên biển để tháo áo phao cứu sinh dành cho những người sống sót đang thiếu. Họ bắt đầu tập hợp lại thành nhóm, có nhóm nhỏ, có nhóm lớn lên tới 300 người. Nhưng không lâu sau tất cả đều hiểu rằng tai họa mà họ đối mặt không phải là đói, khát, mà là cá mập!
Những con vật hung thần của biển cả bị thu hút bởi những tiếng nổ, tiếng tàu đắm và những mảnh vụn, bởi mùi máu trong nước. Mặc dù nhiều loài cá mập sống ở tầng nước mặt, không loài nào có thể sánh về độ hung dữ như cá mập vi trắng. Lời kể của những người sống sót trong thảm kịch tàu Indianapolis cho thấy, những con cá mập có xu hướng tấn công các nạn nhân còn sống ở gần mặt nước, khiến các nhà sử gia tin rằng, hầu hết thương vong do cá mập gây ra với thủy thủ Indianapolis đều do loài cá mập vi trắng đại dương (oceanic whitetip shark).
Đêm đầu tiên, lũ cá mập tập trung vào những xác chết nổi. Nhưng cuộc vật lộn của những người sống sót chỉ làm thu hút thêm cá mập, loài vật săn mồi có thể cảm nhận được chuyển động qua nhờ một đặc điểm sinh học gọi là "cơ quan đường bên". Cấu tạo của cơ quan này là một nhóm đầu dây thần kinh nằm ở dưới da bên hông của cá. Khi có bất kỳ chuyển động nào trong nước (luôn tạo ra sóng lan truyền theo mọi hướng), hệ thống đường bên sẽ nhận biết sóng này và cá sẽ biết được đó là kẻ thù hoặc thức ăn đang ở gần.
Khi lũ cá mập quay sang những người sống sót, đặc biệt là những người bị thương chảy máu, các thủy thủ đã cố gắng xua đuổi chúng khỏi những người đang có vết thương hở; hoặc khi có người nào đó qua đời, họ đẩy xác ra xa với hy vọng những tử thi có thể làm "vừa lòng" hàm cá mập.
Nhiều người sống sót thậm chí đã tê liệt vì hoảng sợ, không dám ăn hay uống những thứ thực phẩm họ kịp mang theo. Một nhóm người sống sót đã sai lầm khi mở lon thịt hộp hiệu Spam, nhưng trước khi họ có thể nếm, mùi thịt đã hút một đàn cá mập vây đến.
Những con cá mập đã hoành hành trong mấy ngày mà không có dấu hiệu của lực lượng cứu hộ. USS Indianapolis thực hiện sứ mạng tuyệt mật, vì thế không có tàu hộ tống và các tàu khác của hải quân Mỹ cũng không nắm được hải trình của tàu tuần dương này. Tình báo Hải quân Mỹ đánh chặn được một thông điệp từ chiếc tàu ngầm Nhật Bản đã phóng ngư lôi tấn công tàu Indianapolis mô tả họ đã đánh chìm một tàu chiến Mỹ trên khu vực thuộc hải trình của Indianapolis. Nhưng thông điệp này lại bị coi là trò lừa của quân Nhật nhằm dụ tàu cứu hộ của Mỹ đến để phục kích.
Trong khi đó, các thủy thủ sống sót của Indianapolis đã học được rằng, họ tốt nhất nên tập hợp thành một nhóm, và lý tưởng nhất là ở trung tâm của nhóm. Những người ở rìa ngoài và những người đơn độc là miếng mồi dễ dàng nhất với lũ cá khát máu.
Vài ngày trôi qua, nhiều người sống sót đã chết vì nắng nóng và khát, hoặc bị ảo giác khiến họ uống nước biển và chết vì ngộ độc muối.
Khoảng 11h00 sáng ngày thứ tư kể từ khi tàu đắm, một chiếc máy bay của Hải quân Mỹ bay trên không đã phát hiện những người sống sót từ tàu Indianapolis và gọi về yêu cầu giúp đỡ. Trong vòng vài giờ, một thủy phi cơ, do trung úy Adrian Marks điều khiển, đã tới hiện trường để thả bè và những vật dụng cứu sinh. Khi thấy những người đàn ông bị tấn công bởi cá mập, Marks đã đáp xuống vùng nước nguy hiểm, và bắt đầu giúp cứu những người bị thương và những người đang "lạc đàn" có nguy cơ lớn nhất bị cá mập ăn thịt.
Không lâu sau nửa đêm, tàu USS Doyle đến hiện trường và giúp kéo những người sống sót cuối cùng ra khỏi mặt biển. Trong số thủy thủ đoàn 1.196 người của tàu USS Indianapolis, giờ chỉ còn lại 317 người.
Harrell, người sắp bước sang tuổi 94, là một trong số ít người sống đủ lâu để biết rằng một nhóm các nhà nghiên cứu dẫn đầu bởi nhà đồng sáng lập Microsoft Paul G. Allen đã tìm thấy các mảnh vỡ của Indianapolis, nằm sâu hơn 3 dặm bên dưới mặt biển Philippines. Phát hiện này đã được công bố vào tháng 8/2017, 72 năm sau thảm kịch.
"Nó mang lại cái kết cho câu chuyện," Harrell nói. "Nhưng trải nghiệm mà ở đó chúng tôi đã sống sót, chấn thương mà chúng tôi cảm thấy, thì vẫn còn tồn tại"
Harrell được đưa tới bệnh viện trên đảo Guam và ở lại đó tới khi quả bom "Cậu bé" đươc thả xuống Hiroshima vào ngày 6/8/1945. Ông trở lại Mỹ vào tháng 10 năm đó.
Trong nhiều năm, thủy thủ sống sót của tàu USS Indianapolis không biết ai phải chịu trách nhiệm về vụ đắm tàu cũng như sinh mạng của hàng trăm người. Trách nhiệm bị đổ lên đầu vị thuyền trưởng đáng kính của tàu, ông Charles Butler McVay III, người đã sống sót. McVay ra tòa án binh sau khi Thế chiến II kết thúc và bị kết tội không bẻ lái con tàu để tránh ngư lôi. Sau đó Bộ trưởng Hải quân Mỹ James Forrestal đã dỡ bỏ án cho ông McVay vào năm 1946, và ca ngợi lòng dũng cảm của ông. Ba năm sau thuyền trưởng McVay nghỉ hưu.
Mãi tới năm 1960, Harrell mới lần đầu tái ngộ những thủy thủ sống sót tại Indianapolis, thành phố được đặt theo tên con tàu. Ông đã viết thư cho thuyền trưởng và mời ông tham dự sự kiện. Nhưng 8 năm sau, vào năm 1968, McVay tự tử bằng một khẩu súng của quân đội, tự kết thúc cuộc sống trước khi kịp chứng kiến những bằng chứng chứng minh ông vô tội được công bố.
Tới đầu những năm 1990, những thông tin giải mật tiết lộ rằng, tình báo Mỹ đã biết về hoạt động của hai tàu ngầm Nhật Bản trên hải trình của chiến hạm Mỹ, trong đó có một chiếc đã bắn hạ tàu Indianapolis. Ông McVay và thủy thủ đoàn đã được cử lên đường tới khu vực này mà không nhận được bất cứ cảnh báo nào về mối nguy hiểm phía trước.