Kỳ cuối: Nâng cao bí mật
Theo trang historynet.com, một sự cố đáng tiếc khác xảy ra ngày 3/7. Trong thư gửi Tướng Washington, Thiếu tá Benjamin Tallmadge vô cùng xấu hổ báo cáo rằng ông đã mất ngựa, tiền và vài tài liệu quan trọng khi quân Anh bất ngờ tấn công trại của ông vào rạng sáng 2/7.
Tướng Washington trả lời sĩ quan phụ trách mạng lưới Culper như sau: “Tôi vừa nhận được thư ngày 3 của ông. Việc mất giấy tờ quả là một sự cố vô cùng đáng tiếc, cho thấy mức độ nguy hiểm khi giữ tài liệu quan trọng ở tiền tuyến. Tôi mong ông cẩn trọng hơn để tránh điều tương tự trong tương lai. Nếu ông cử cho tôi một người đáng tin, tôi sẽ bù lại số tiền đó”.
Chân dung Thiếu tá Benjamin Tallmadge. Ảnh: Wikipedia
Như thể vẫn chưa đủ rắc rối, ngày 5/7, thành viên lãnh đạo mạng lưới Abraham Woodhull ở Setauket (Long Island) gửi thư báo cho Thiếu tá Tallmadge rằng ông đang bị nghi ngờ, nên không thể tiếp tục ra vào trại quân Anh ở New York. Ông còn thông báo kế hoạch rời thành phố trở lại Setauket và viết thêm: “Tôi sẽ cố gắng bố trí một người bạn đáng tin [Robert Townsend] thay thế vị trí của tôi, nếu anh đồng ý thì hồi âm trong thư tới và gửi kèm mực”.
Trong vài tuần tiếp theo, cả Tướng Washington và Thiếu tá Tallmadge đều gấp rút tìm cách cải thiện kỹ thuật nghiệp vụ và bảo mật cho mạng lưới Culper. Hai bức thư cùng đề ngày 25/7 là minh chứng rõ nhất cho nỗ lực chung đó. Tướng Washington viết cho Tallmadge từ West Point: “Tất cả mực trắng mà tôi hiện có (và cũng là tất cả những gì có thể có trong thời gian tới) được gửi trong lọ số 1 qua Đại tá Samuel Webb. Dung dịch trong lọ số 2 là chất đối ứng, dùng để làm lộ mực bằng cách thấm nhẹ lên giấy bằng bút lông mịn sau khi lớp mực thứ nhất đã khô. Ông hãy gửi chúng cho Cr Jr sớm nhất có thể, và tôi mong tuyệt đối không ai nhắc rằng ông đã nhận được những dung dịch này từ tôi hay bất kỳ ai khác. Trong mọi trường hợp và mọi thời điểm, sự thận trọng và kín đáo là cần thiết, đặc biệt là lúc này, vì tôi được biết Thống đốc Tryon có một loại dung dịch tương tự, có thể dẫn đến bị phát hiện nếu ai đó biết rằng vật liệu kiểu này được chuyển từ tôi”.
Cũng trong ngày 25/7, Thiếu tá Tallmadge gửi thư cho Tướng Washington thông báo đang khẩn trương soạn quyển sổ mật mã nổi tiếng, thực ra chỉ gồm bốn trang. Bức thư viết tại Ridgefield (bang Connecticut), kèm bảng mã gồm các số và từ dùng trong mạng lưới Culper. Mục đích là tạo ra một cẩm nang tham chiếu cho các thành viên chủ chốt của tổ chức gián điệp mà không làm lộ danh tính nếu thư bị chặn. Bằng cách này, dù bị giải mã, đối phương cũng không thể xác định danh tính thật của các nhân vật mang bí danh.
Đến mùa xuân năm 1780, thư từ giữa Tướng Washington và James Jay tăng mạnh, vì Tướng Washington bất ngờ hết mực tàng hình vào tháng 4. Ngày 9/4, ông viết cho James Jay, khi đó đang ở Fishkill cùng anh trai John, với giọng đầy lo lắng: “Dung dịch mà anh đã tốt bụng cung cấp cho tôi để phục vụ thư từ bí mật nay đã hết. Vì tôi thấy nó rất hữu ích, xin anh vui lòng gửi thêm cho tôi một ít nữa. Tôi vẫn còn đủ vật liệu để tạo chất đối ứng. Nếu anh không có sẵn các thành phần cần thiết, xin vui lòng lấy tại bất kỳ bệnh viện nào gần đó, nhân danh tôi. Mong anh thứ lỗi vì đã gây phiền toái. Tái bút: Nếu anh chưa kịp chuẩn bị dung dịch cho người mang thư, xin chuyển cho Đại tá Hay, ông ấy sẽ gửi lại cho tôi”.
Ngày 13/4, James Jay hồi âm Tướng Washington: “Tôi đã nhận được thư của ngài đề ngày 9 và rất vui được gửi kèm loại ‘thuốc’ ngài yêu cầu trong một hộp nhỏ, hy vọng ngài sẽ nhận được cùng thư này. Tôi ước gì có thể gửi nhiều hơn, vì e rằng ngài sẽ quá dè sẻn khi dùng lượng ít ỏi này. Tuy nhiên, đây là toàn bộ phần còn lại tôi mang từ châu Âu. Tôi hiện có trong tay những thành phần chính của công thức, các phần còn lại có thể tìm được, nhưng điều bất tiện là tôi chưa có nơi nào đủ điều kiện để lắp đặt thiết bị pha chế...”.
Ông tiếp tục trình bày về việc cần phòng thí nghiệm phù hợp để tái sản xuất dung dịch, rồi kết luận: “Tôi sẽ sớm có niềm vui được gửi ngài lượng dung dịch đủ để ngài không chỉ thoải mái sử dụng mà còn có thể chia sẻ một ít cho bạn bè nếu cần, mà không lo cạn kiệt trong tương lai”.
Tướng Washington rất vui khi nhận thêm mực tàng hình của James Jay qua một người chuyển đặc biệt. Dù không rõ người được giao nhiệm vụ bí mật này là ai, nhưng khả năng cao đó là một thành viên của Trung đoàn Kỵ binh nhẹ Lục địa số 2 do Đại tá Elisha Sheldon chỉ huy – đơn vị tinh nhuệ mà Tallmadge đang phục vụ.
Trong thư gửi James Jay, Tướng Washington nói rằng tình hình đã cải thiện và đồng thời ủng hộ xây dựng một phòng thí nghiệm cho James Jay. Để tránh lộ nội dung, ông dùng cách nói bóng gió: “Tôi rất vui khi nhận được thư anh đề ngày 13 và 20/4. Hộp ‘thuốc’ nói trong thư trước đã đến nơi an toàn và càng quý giá hơn vì tôi đã dùng hết phần đầu tiên anh từng gửi. Tôi đã chỉ thị cho Đại tá Hay hỗ trợ anh dựng một phòng thí nghiệm nhỏ, từ đó tôi hy vọng anh vừa có thể nghiên cứu và giải trí, vừa đem lại lợi ích cho công chúng”.
Tướng Washington cũng viết cho Trung tá Udny Hay (Phó tổng quản lý hậu cần, đang đóng tại Fishkill, nơi đặt kho tiếp tế của Lục quân Lục địa và dân quân Ái quốc), thông báo rằng James Jay cần một đến hai ngày để xây phòng thí nghiệm nhỏ, “nhằm tiến hành vài thí nghiệm có ích cho công chúng và ông ấy đã cung cấp cho tôi vài chế phẩm hóa học đem lại nhiều lợi ích; tôi cho rằng nên đáp ứng yêu cầu này”.
Sau một năm rưỡi thư từ bí mật gián đoạn, ngày 22/9/1780, Thiếu tướng Benedict Arnold và Thiếu tá John André gặp nhau ven rừng phía Nam West Point. Trùng hợp thay, cũng chính ngày này năm 1776, Đại úy Nathan Hale bị người Anh treo cổ tại Manhattan vì tội gián điệp.
Vài ngày trước, ngày 19/9, James Jay gửi bức thư cuối cùng còn lưu lại giữa ông và Tướng Washington trước khi chiến tranh kết thúc. Ông xin lỗi vì chưa kịp gửi thêm “thuốc” do khó khăn tài chính. Qua giọng văn và lời kết ấm áp, có thể thấy James Jay rất kính trọng Tướng Washington. Nhiều năm sau, năm 1784, James Jay viết từ London đề nghị Tướng Washington xác nhận công lao hoạt động bí mật của mình và ông đã được chấp thuận. James Jay sống nốt quãng đời còn lại tại London.
Mực tàng hình và sổ mật mã của Tallmadge chứng minh hiệu quả vượt trội. Không điệp viên hay người chuyển thư nào – kể cả Tallmadge – bị người Anh phát hiện hoặc bắt giữ. Công lao của James Jay và mạng lưới Culper chỉ được biết đến từ những năm 1930, khi nhà sử học Morton Pennypacker công bố nghiên cứu.
Nỗ lực phối hợp giữa Tướng Washington (người chỉ huy mạng lưới tình báo) cùng các điệp viên và người đưa thư quả cảm (và cả Tallmadge), cộng với tài năng hóa học của James Jay, đã tạo nên một lực lượng đáng gờm chống quân đội Anh. Họ đã vận dụng trí tuệ và sáng tạo trong hành trình giành tự do và độc lập khỏi đế quốc Anh.
Địa điểm của phòng thí nghiệm bí mật do James Jay điều hành nằm cạnh nơi ở tạm thời của John Jay – ngôi nhà Thẩm phán Theodorus Van Wyck xây năm 1740, thuộc làng Wiccopee, nay là khu East Fishkill. Trong nhiều năm, khu này nằm trong khuôn viên cơ sở IBM hiện nay. Phòng thí nghiệm biến mất trong lịch sử sau chiến tranh, còn ngôi nhà của Van Wyck đã bị IBM phá dỡ vào thập niên 1970.