Nhân dịp kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết: “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968: Kinh nghiệm và giá trị vận dụng trong hiện tại” của Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Xuân Nhiên, Khoa Chiến lược, Học viện Quốc phòng.
Thắng lợi trong Xuân Mậu Thân 1968 thật to lớn, nổi bật nhất là ta đã giáng một đòn quyết định làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ; buộc chúng, dù ngoan cố và dù còn gây cho ta nhiều khó khăn nhưng đã phải bắt đầu quá trình xuống thang chiến tranh, bắt đầu rút quân Mỹ về nước, chuyển chiến lược sang “phi Mỹ hóa” chiến tranh và nhận đàm phán với ta ở Hội nghị Pari, mở ra một mặt trận tiến công mới của ta về ngoại giao, cũng như ta có thêm điều kiện kết hợp đấu tranh quân sự - chính trị - ngoại giao với địch, tạo ra bước ngoặc quan trọng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước...
Nắm bắt thời cơ chiến lược để chủ động tiến công địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh
Như chúng ta đều biết, trong tác chiến, thời cơ là một trong các yếu tố cực kỳ quan trọng mà mỗi bên tham chiến cần tích cực tạo ra (tạo thời cơ) hoặc chủ động phát hiện để kịp thời chớp lấy (nắm thời cơ) để làm tăng sức mạnh gấp bội của thế, của lực bên mình nhằm giành thắng lợi trong chiến tranh, chiến cục hay trong các chiến dịch, trận đánh... Ở vào hoàn cảnh của một nước nhỏ phải chống lại kẻ thù xâm lược lớn có ưu thế vượt trội hơn về nhiều mặt, Đảng ta luôn coi trọng vận dụng yếu tố thời cơ, tích cực tạo nắm thời cơ chiến lược, thúc đẩy và chớp lấy thời cơ có lợi để hạ quyết tâm chiến lược kịp thời, chủ động đánh địch, giành thắng lợi trong cuộc chiến...
Cụ thể, ngay từ cuối năm 1965, khi ta nhận thấy Mỹ - ngụy chuyển chiến lược từ “chiến tranh đặc biệt” sang “chiến tranh cục bộ”, trong nghị quyết đánh Mỹ của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (tháng 12/1965) đã chỉ ra phương hướng giành thắng lợi trong chiến tranh, đó là: Trên cơ sở tiếp tục quán triệt phương châm đánh lâu dài, chúng ta “cần cố gắng cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam”. Phương châm chiến lược đó đã quán xuyến trong từng chiến dịch, từng đợt hoạt động quân sự và chính trị từ sau năm 1965.
Đội võ trang Ban Tuyên huấn đặc khu Sài Gòn - Gia Định (T4) trước giờ xuất kích tham gia chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 lịch sử. Ảnh: Tư liệu |
Đồng thời, khi phân tích tình hình địch, Đảng ta cũng nhận thấy: Mặc dù quân số địch lên tới mức cao, nhưng tất cả ưu thế về binh lực, hỏa lực và sức cơ động của chúng bị hạn chế rất nhiều trước thế trận và cách đánh của ta. Những chỗ yếu của địch không được khắc phục mà ngày càng bị khoét sâu thêm, đặc biệt là chỗ yếu về chính trị.
Vì thế, mặc dù địch vẫn còn rất chủ quan, nhưng nhìn chung “xu thế của tình hình trong cả nước năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước”, nhất là “So với mục đích chính trị, quân sự nhất định của chúng thì những cố gắng chiến tranh của Mỹ (cùng với những thiệt hại nặng nề của chúng) ở Việt Nam đã lên tới đỉnh cao”. Như vậy, địch vẫn đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn… đây là một nhận định rất quan trọng, có ý nghĩa lớn để xác định thời điểm tiến hành đòn đánh quyết định trong việc hoạch định kế hoạch chiến lược “Tết Mậu Thân”.
Đồng thời, Đảng ta còn nhận thấy những khó khăn đó trong nội bộ nước Mỹ càng bị nhân lên khi mà chính quyền Giôn-xơn đang gặp phải những khó khăn to lớn về chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội, ngoại giao do hậu quả bị sa lầy trong chiến tranh Việt Nam và năm vận động bầu cử Tổng thống ở Mỹ đang xích lại gần... Mặt khác, về phía ta, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, nhược điểm (cả về tổ chức lực lượng, về khả năng đánh tiêu diệt lớn, về đảm bảo hậu cần, về phong trào ở đô thị...) nhưng diễn biến cơ bản của tình hình vẫn cho thấy ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi.
Từ những phân tích, đánh giá diễn biến và xu thế phát triển của tình hình như thế, Đảng ta đã đi tới nhận định: “Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược”. Tình hình đó cho phép chúng ta có thể lợi dụng để buộc Chính phủ Mỹ phải quyết định chấm dứt chiến tranh “có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định”...
Trên cơ sở đó, trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo quân và dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ”, Đảng ta đã luôn luôn kiên định chủ trương “giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam”- chủ trương đó quán xuyến suốt gần 3 năm (1965-1967) mà Hội nghị Trung ương 12 (12/1965) và Hội nghị Trung ương 13 (l/1967) đã dự kiến. Do đó, khi phát hiện thấy động thái mới của địch sau mùa khô 1966 - 1967, Đảng ta đã sớm dự kiến được xu thế phát triển của cuộc chiến tranh, kịp thời phát hiện được thời cơ để hạ quyết tâm chiến lược bằng việc mở cuộc tiến công Tết Mậu Thân 1968.
Rõ ràng, đây là một quyết định quan trọng sau 3 năm tạo thời cơ, chờ đón thời cơ và chớp lấy thời cơ để “giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam” của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng. Thực tế cũng đã cho thấy đây là một chủ trương chiến lược đúng đắn và sáng tạo, là một sáng kiến lịch sử của Đảng ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Chọn hướng, mục tiêu và nghi binh lừa địch sáng tạo Trong đợt Tết Mậu Thân 1968, hướng tiến công chiến lược chủ yếu của ta là các thành phố, trung tâm đầu não của Mỹ - ngụy, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng; hướng phối hợp chiến lược quan trọng là mở chiến dịch lớn ở Đường 9 - Khe Sanh nhằm diệt bộ phận quan trọng sinh lực Mỹ, căng kéo và kìm chân địch trên mặt trận này để hỗ trợ cho hướng tiến công chiến lược chủ yếu, đồng thời nghi binh thu hút địch. Trong đó, hướng tiến công chủ yếu nhằm vào đô thị miền Nam thực sự đã là một bất ngờ lớn, khiến cho địch trên chiến trường không kịp trở tay, khiến cho giới lãnh đạo Mỹ ở Washington ngày đó đã phải “sững sờ, choáng váng”.
Đây là lần đầu tiên trong suốt nhiều năm kháng chiến, chúng ta đã đưa được chiến tranh vào đô thị; hoạt động đó đã biến hậu phương và hậu cứ địch thành chiến trường của ta. Đó là một thành công lớn của Đảng trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh - nghệ thuật đánh hiểm, đánh đau, đánh vào yết hầu, vào trung ương thần kinh địch. Bởi vì, cùng với bấy nhiêu quân, với thế trận và so sánh lực lượng khi bước vào Đông Xuân 1967-1968, nếu chúng ta vận dụng một chiến lược khác, chọn một hướng tiến công khác thì có lẽ cuộc chiến tranh sẽ không thay đổi một cách đột biến và đẩy địch vào thế bị nguy khốn cả về quân sự và chính trị như dịp Tết Mậu Thân.