Đôi điều về câu đối

Vào bất cứ đền, chùa nào ta đều thấy những bức hoành phi, câu đối bằng chữ nho, một số gia đình cũng sắm hoành phi câu đối làm đẹp và sang cho ngôi nhà của mình. Nhưng đa số khách và chủ nhà vẫn chưa hiểu hết được các bức hoành phi, câu đối ấy có ý nghĩa gì, bởi chúng đều được viết bằng chữ Hán.


Câu đối trên ban thờ.


Người xưa có quan niệm: “Nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa”. Câu đối có hai vế với những niêm luật chặt chẽ về đối thanh, đối ý, đối từ và sử dụng nhiều thủ pháp chơi chữ… nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nghệ thuật đối thể hiện cái hay cái đẹp của phong cách thơ văn cổ, đó là sự cân đối, đăng đối, hài hòa… 


Không những thế, câu đối còn thể hiện trí thông minh, sự nhanh nhạy và phong cách tài tử trong việc đối đáp ứng xử. Câu đối tuy không dài, không nhiều chữ như những bài văn bài thơ, chỉ có hai vế nhưng vẫn thể hiện được ý tưởng, quan điểm một cách rõ ràng, cô đọng và súc tích. Mỗi câu đối được coi là một tác phẩm nghệ thuật, qui mô của tác phẩm tuy nhỏ, nhưng sức chứa, sức gợi rất lớn. Ngôn từ của câu đối được cân nhắc chọn lọc, âm điệu nhịp nhàng, kết cấu chặt chẽ, nhiều câu tài tình đến mức người đọc người nghe cảm thấy kỳ thú một cách bất ngờ khi nó bật ra ý tưởng mới lạ.


Trong lịch sử văn học Việt Nam, có nhiều câu đối nổi tiếng của những bậc học rộng tài cao như Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến...


Những vế đối hoàn hảo, chặt chẽ, ý nhị đã chứng minh tài hoa bậc thầy của các danh sĩ nước ta trong việc sử dụng tiếng Hán và tiếp thu tinh hoa văn hóa nước ngoài nhưng đã “Việt hóa” hết sức nhuần nhuyễn.


Như vậy việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của dân tộc khác một cách có chọn lựa không có gì đáng chê trách. Tuy nhiên, trên thực tế, đây đó vẫn còn có những “hạt sạn” không đáng có.


Ở khu tượng đài ngã ba Đồng Lộc, một thời đôi câu đối không chỉnh được khắc vào đá: “Hồn bay theo gió bên Hồng Lĩnh/ Hiến thân báo quốc sáng anh linh”. “Hồn” là danh từ lại đối với “Hiến” là động từ? “Bay” là động từ đối với “Thân” là danh từ? “Gió” và “Quốc” là hai chữ thứ tư mà lại cùng vần trắc? Câu đối còn mắc những sai lầm về niêm luật: “Hồng Lĩnh” và “Anh linh” đối chưa chỉnh vì một chỉ địa danh còn một thì không. Vậy mà mãi đến năm 2009 một hành giả đến viếng mới phát hiện ra, bây giờ đã được gỡ xuống để sửa lại (!)


Có những hoành phi, câu đối bằng chữ Hán ở một số nơi làm người đọc phân vân như ở những ngôi đền thờ danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi và Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ mới xây dựng ở Khuyến Lương, (Thanh Trì - Hà Nội); Tân Lễ, (Hưng Hà - Thái Bình) và Lệ Chi Viên, (Gia Bình - Bắc Ninh) đều bằng chữ nho, trong khi Nguyễn Trãi là người rất coi trọng chữ Nôm, một sáng tạo tuyệt vời của người Việt, toàn bộ Quốc âm thi tập của ông được viết bằng chữ Nôm. Ở đền thờ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ ở Lệ Chi Viên, thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh chữ “Nghi” trong hoành phi: “Lễ nghi học sĩ” cũng không đúng, vì chữ “nghi” trong chữ Hán khác nhau trong từng văn cảnh, ví dụ: “nghi lễ”, “nghi ngờ”, “tùy nghi”… sai một ly đi một dặm (!)


Ở Thiên cổ miếu - Việt Trì, nơi cổ xưa nhất nước ta thờ thầy giáo là hai vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, đời Hùng Vương thứ 18, dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Hoành phi, câu đối ở đây được viết bằng “chữ Việt cổ” trong khi cái gọi là “chữ Việt cổ” ấy chưa được hội đồng khoa học kiểm chứng và công nhận và nước ta không mấy người đọc được - (Người viết hoàn toàn không nghi ngờ về sự tồn tại của chữ Việt cổ và vô cùng trân trọng công trình của các nhà nghiên cứu, nhưng chỉ nên sử dụng trong cộng đồng sau khi được nhà nước công nhận trở thành tài sản của dân tộc và cần dịch ra chữ Quốc ngữ).


Hiện nay đa số người được giao trách nhiệm trông coi các đền, chùa, khu di tích… không biết chữ Hán, nên khi giải thích cho du khách ý nghĩa các hoành phi, câu đối đều lúng túng, hoặc giải thích không chuẩn xác. Vậy những hoành phi câu đối được thể hiện rất công phu ấy nhằm mục đích gì? Phải chăng chỉ làm sang, để thỏa mãn ý tưởng, nhận thức của những nhà xây dựng? Đôi khi những nhà hảo tâm hiến tặng cũng không nghĩ đến việc dịch câu đối đó cho người đọc dễ hiểu, nên chưa phục vụ đa số quần chúng nhân dân, chưa giúp cho người dân có thể hiểu, cảm, đồng điệu và thấm được cái hồn trong mỗi câu đối đó.


Những câu đối bằng chữ nho không có chữ Quốc ngữ viết cùng, mọi người chỉ xem qua rồi đi, nhưng khi có chữ Quốc ngữ, mọi người đều chăm chú đọc rồi cùng nêu lên cảm tưởng, nhận xét và suy ngẫm mãi. Nên chăng chỉ có câu đối bằng chữ Nho, chữ Nôm ở những nơi thật cần và nên có lời dịch chuẩn mực bằng Quốc ngữ viết kèm. Còn lại nên viết bằng chữ Quốc ngữ.


Năm 2009 cùng anh em trong “Hội những người yêu kính Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi và Lễ nghi học sỹ Nguyễn Thị lộ” đến tặng gia đình cố giáo sư, thượng tướng Hoàng Minh Thảo cuốn sách “Hợp tuyển thơ Nguyễn Trãi”, tất cả đều vô cùng thích thú và rất ấn tượng khi được chiêm ngưỡng và thưởng thức hoành phi, câu đối bằng chữ Quốc ngữ nơi bàn thờ. Chính giữa là bức hoành phi: “Vệ Quốc tướng quân”, hai bên là hai vế câu đối: “Giáo sư uyên bác ngàn trang rực rỡ bút tinh khôi/ Thượng tướng anh minh trăm trận lẫy lừng gương trí dũng”. Ai dám nói đây là câu đối không hay, không chỉnh, bởi tuy bằng chữ Quốc ngữ nhưng từng tiếng, từng chữ, từng ý đối nhau rất chỉnh, ca ngợi đúng mức tài, tâm, đức, cuộc đời và sự nghiệp của cố giáo sư, thượng tướng Hoàng Minh Thảo văn võ kiêm toàn.


Người viết bài này đã có dịp đến thăm ba ngôi chùa trên huyện đảo Trường Sa. Ai cũng trầm trồ thán phục trước dáng vẻ uy nghi của những ngôi chùa sừng sững trước phong ba bão táp, đặc biệt những hoành phi, câu đối đều bằng chữ Quốc ngữ: “Uy thần biển đảo cổ vẫn truyền/ Chùa Phật Trường Sa nay còn tỏ” và: “Cá đọc kệ được thành tiên/ Rồng nghe kinh mà mộ đạo”- (câu đối ở chùa Trường Sa Lớn và đảo Sinh Tồn). Những câu đối ngắn gọn, súc tích bằng chữ Quốc ngữ vừa nói lên sức cảm hóa to lớn của đạo Phật, vừa khẳng định được chủ quyền của ta đã có tự ngàn xưa trên mảnh đất nơi tiền tiêu hải đảo.


Hoành phi chùa Song Tử Tây.


Ở chùa Song Tử Tây, ngôi chùa bề thế nhất trong ba ngôi chùa ở Trường Sa lại có câu đối tuyệt hay: “Mây lành che khắp thập phương nhân/ Trời tuệ rọi soi ngàn thế giới” và: “Chùa chiền sừng sững nguy nga đất Việt nổi danh lam/ Quần đảo huy hoàng chất ngất Biển Đông ngời thắng cảnh”. Đó không chỉ là sức cảm hóa vô hình của đạo Phật, đó không chỉ là thắng cảnh của trời Nam, mà còn là mảnh đất địa linh nhân kiệt tự ngàn xưa và mãi mai sau: “Đức rồng vời vời dân khang vật thịnh vạn niên/ Chùa Phật huy hoàng nhân kiệt địa linh muôn thuở”.


Chúng ta xây đền, dựng tượng… là cho con cháu muôn đời hướng về nguồn cội, biết yêu thương trân trọng công sức, máu xương của tổ tiên đã đổ xuống mảnh đất thiêng liêng này trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, để rồi biết yêu thương, nhân ái và ươm những hạt mầm tốt đẹp trong lòng, phấn đấu vì một ngày mai tươi sáng hơn. Đấy không chỉ là thái độ sống tôn trọng với tiền nhân, mà còn có tác dụng sâu sắc với muôn đời thế hệ. Vậy tại sao dù chỉ là những hoành phi, câu đối lại không mang hồn cốt dân tộc, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn, tự trọng trong mỗi người dân đất Việt, mà lại cứ phải “nệ cổ”, vô tình trở thành một thứ nô lệ văn hóa. Đã đến lúc cần xem lại và có định hướng về việc viết hoành phi, câu đối, sao cho vừa truyền thống vừa hiện đại, phù hợp với không gian văn hóa và phục vụ cho đại chúng.


Bài và ảnh:Đình Văn

Nhờ câu đối lấy được công chúa

Thuở hàn vi, Hồ Quý Ly thường theo người cha nuôi họ Lê đi buôn bán đường biển. Một lần thuyền chở hàng ghé bờ, khi dạo chơi trên bãi biển, Hồ Quý Ly thấy ai dùng que vạch lên cát một câu thơ: “Quảng Hàn cung lý nhất chi mai”. Mặc dù không hiểu có nghĩa gì, nhưng ông vẫn nhập tâm câu đó.

Chia sẻ:
Từ khóa:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN