Về vấn đề này, Khoản 1 và 2, Điều 50 Luật Việc làm quy định: Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng BH thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp. Nhưng, tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở đối với người lao động (NLĐ) thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định; hoặc không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Bộ luật Lao động đối với NLĐ đóng BH thất nghiệp theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động (SDLĐ) quyết định tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) hoặc hợp đồng làm việc.
Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng BH thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp; sau đó cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Ngoài ra, Khoản 7, Điều 18 Nghị định 28/2015/NĐ-CP về giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp quy định: Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng BH thất nghiệp theo quy định tại Khoản 2, Điều 50 Luật Việc làm. NLĐ có thời gian đóng BH thất nghiệp trên 36 tháng, thì những tháng lẻ chưa giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp được bảo lưu làm căn cứ để tính thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp cho lần tiếp theo.
Do đó, nếu chấm dứt HĐLĐ đúng luật, đến nay bạn sẽ được hưởng 6 tháng trợ cấp thất nghiệp; tiền trợ cấp thất nghiệp mỗi tháng bằng 60% bình quân số tiền lương làm căn cứ đóng BH thất nghiệp 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc, nhưng tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở hoặc 5 lần mức lương tối thiểu vùng.