Cụ thể, cuối tháng 7/2022, bệnh nhân H.M.A.H (nữ), 20 tuổi ở quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh thấy khó thở liên quan đến gắng sức, mệt nhiều kèm theo phù hai chân, vàng da, được khám tại y tế địa phương, chẩn đoán u nhầy nhĩ phải. Bệnh nhân được chuyển đến Bệnh viện Quân y 175 ngày 4/8 trong tình trạng suy tim phải nặng, tổn thương gan, có biểu hiện khó thở tăng dần, nôn ói nhiều.
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định u (qua siêu âm tim, chụp cắt lớp vi tính đa dãy – MSCT) và các cận lâm sàng khác tầm soát loại trừ huyết khối, các nguyên nhân ác tính thứ phát. Quá trình chẩn đoán đã phát hiện thêm tổn thương lao đa cơ quan (phổi, ruột) đang tiến triển. Ngay lập tức, bệnh nhân được hội chẩn, quyết định điều trị tổn thương lao 2 tuần và phẫu thuật sớm có trì hoãn.
Sau hơn 2 tuần điều trị tích cực tổn thương lao đa cơ quan, ngày 25/8, bệnh nhân H.M.A.H được chuyển phòng mổ thực hiện phẫu thuật loại trừ khối u và chữa các thương tổn do u gây ra trên tim. Do tim rất lớn nên kíp mổ lựa chọn kĩ thuật mổ kinh điển qua đường chẻ dọc giữa xương ức, lấy được khối u có kích thước 100x95x55mm, lớn hơn so với khối u nhĩ phải cũng được bệnh viện này phẫu thuật vào tháng 5/2021 với kích thước 95x70x68mm.
Bác sỹ chuyên khoa I Nguyễn Doãn Thái Hưng, phụ trách Khoa Phẫu thuật tim mạch Bệnh viện Quân y 175 cho biết, đặc điểm chung qua 2 trường hợp u nhầy nhĩ phải được điều trị tại Bệnh viện là đều có kích thước khổng lồ. Một phần nguyên nhân có thể là do u nhầy ở vị trí tim phải có tỉ lệ gây biến chứng cấp tính thấp hơn ở tim trái, chính vì vậy khối u có thể tồn tại và phát triển rất lâu trong cơ thể bệnh nhân.
Theo bác sĩ Nguyễn Doãn Thái Hưng, phẫu thuật là phương pháp chính điều trị u nhầy nhĩ phải. Phẫu thuật cấp cứu nên được đặt ra ngay khi phát hiện, lý do bởi nguy cơ tạo thuyên tắc và suy tim cấp… Những khối u kích thước nhỏ, cuống gọn, có thể lựa chọn phương pháp phẫu thuật ít xâm lấn hoặc nội soi, thậm chí không cần ngưng tim. Tuy nhiên, với những trường hợp u lớn như thế này nên lựa chọn đường mổ hở rộng để kiểm soát tốt u, tránh làm vỡ u; đồng thời hạn chế các rối loạn dẫn truyền và tổn thương van, tránh các biến chứng trong quá trình gây mê như tụt huyết áp, rối loạn nhịp. Quá trình phẫu thuật phải hết sức cẩn trọng, chỉ cần một bất cẩn nhỏ có thể để lại hậu quả và di chứng nặng nề cho bệnh nhân.
“Nhìn chung, phẫu thuật tim hở điều trị u nhầy nhĩ phải tương đối nhẹ nhàng, ít biến chứng, hậu phẫu thuận lợi, thời gian nằm viện thấp. Tỉ lệ khỏi nếu được điều trị phẫu thuật là rất cao (trên 95%). Tuy nhiên, trong 5 năm đầu sau phẫu thuật, bệnh nhân vẫn nên định kỳ kiểm tra siêu âm tim mỗi 6 tháng để phát hiện tái phát sớm nếu có”, đại diện Bệnh viện Quân y 175 cho biết.
Theo các chuyên gia y tế, u nhầy là loại u nguyên phát ở tim thường gặp nhất, cũng chỉ chiếm tỉ lệ 0,0017% trong dân số chung. U nhầy phát triển từ các tế bào trung mô của lớp nội tâm mạc, là loại u lành tính. Kích thước u nhầy thay đổi từ 1-15cm, cân nặng từ 15-180g, các u được gọi là lớn khi có đường kính trên 5cm. U nhầy nhỏ thường ít khi gây triệu chứng, bệnh nhân thường chỉ tình cờ phát hiện qua khám sức khỏe, trong khi các u lớn sẽ gây các cản trở dòng chảy về nhĩ phải, thương tổn cấu trúc van ba lá; thậm chí tổn thương các cơ quan khác như gan, hay vỡ u gây thuyên tắc phổi. Do vậy, cần phải được phẫu thuật cắt bỏ càng sớm càng tốt ngay khi phát hiện. Tỉ lệ tái phát khoảng 1%.
Các báo cáo công bố trong nước cho thấy, trường hợp của bệnh nhân H.M.A.H là ca bệnh u nhầy nhĩ phải có kích thước lớn nhất từng được điều trị thành công. Với kích thước 100x95x55mm, đây có thể là một trong những khối u nhầy có kích thước lớn nhất được công bố trên thế giới (khối u nhầy được công bố lớn nhất kích thước 100x60x80mm do tác giả Nina công bố năm 2012).