Hiện nay, bệnh nhi được theo dõi sát tại Khoa Hồi sức tim mạch, Trung tâm Tim mạch của đơn vị với tình trạng huyết động ổn định.
Là chuyên gia hàng đầu cả nước về can thiệp tim bẩm sinh, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Lân Hiếu cho hay, đây là trường hợp đầu tiên tại Việt Nam được áp dụng phương pháp phẫu thuật Hybrid trong điều trị bệnh nhân mắc tim bẩm sinh phức tạp, lỗ thông liên thất rất lớn được chụp qua đường tĩnh mạch, rất hiếm được thực hiện trên thế giới vì tính phức tạp của kỹ thuật. Trong khi đó, thông thường các nơi khác thực hiện qua đường động mạch.
Bệnh nhi 8 tháng tuổi, trú huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế nhập viện tại Bệnh viện Trung ương Huế ngày 3/6, được chẩn đoán thông liên thất phần cơ bè kích thước rất lớn (khoảng 11 mm), áp lực động mạch phổi gần bằng áp lực hệ thống và tăng sức cản động mạch phổi nặng trên nền suy dinh dưỡng, nhiễm trùng phổi. Bệnh nhi đã được điều trị các bệnh nền, nâng cao thể trạng. Tuy nhiên, lưu lượng máu quá lớn qua lỗ thông liên thất gây suy tim ngày càng nặng và nguy cơ tổn thương phổi không hồi phục biến chứng sang bệnh lý mạch máu phổi tắc nghẽn Eisenmenger phức tạp.
Qua kết quả siêu âm, thông tim cho thấy, vị trí dị tật tim bẩm sinh rất đặc biệt và phức tạp. Vị trí và kích thước lỗ thông rất lớn nên việc thực hiện can thiệp đóng dù qua đường mạch máu ở chân là không khả thi. Ngoài ra, vị trí lỗ thông liên thất rất gần mỏm tim, vì vậy rất khó cho bác sĩ phẫu thuật tim tiếp cận lỗ thông liên thất để khâu lại.
Chiều 14/8, các bác sỹ Bệnh viện Trung ương Huế dưới sự chủ trì của Giáo sư Phạm Như Hiệp (Giám đốc) và Phó Giáo sư Nguyễn Lân Hiếu (Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội) đã tiến hành hội chẩn đa chuyên khoa bao gồm: Tim mạch can thiệp, ngoại lồng ngực mạch máu, hồi sức tim mạch, hồi sức nhi khoa, nhi tim mạch và thăm dò chức năng tim mạch. Qua đó, thống nhất phương án kết hợp can thiệp đóng dù lỗ thông và kết hợp phẫu thuật bộc lộ tim để điều trị cho bệnh nhi này.
Sáng 15/8, bệnh nhân nhi được đưa vào phòng phẫu thuật Hybrid. Các bác sỹ ngoại lồng ngực tim mạch tiến hành mở lồng ngực để bộc lộ tim. Sau đó các bác sỹ tim mạch can thiệp đã đưa dụng cụ đóng dù xuyên qua thành tim được bộc lộ dưới hướng dẫn của siêu âm tim và màn tăng sáng DSA. Trong suốt quá trình phẫu thuật, bệnh nhi được gây mê và hỗ trợ tim bởi các thiết bị đặc biệt của hồi sức tim mạch. Sau 2 giờ can thiệp, các bác sỹ đã đóng dù thành công lỗ thông liên thất và thành ngực an toàn.
Trước đó, ngày 14/8, ekip bác sỹ Bệnh viện Trung ương Huế với sự hỗ trợ của Phó Giáo sư Nguyễn Lân Hiếu cũng đã bít dù lỗ dò khổng lồ động mạch phổi thành công cho một bệnh nhi khác (3 tuổi, trú tỉnh Quảng Bình) có tiền sử hay tím môi đầu chi. Bệnh nhi vào viện trong tình trạng sốt cao, đau đầu, nôn mửa, tím nhiều; nồng độ oxy máu dao động 65- 70%.
Kết quả chụp CT não cho thấy hình ảnh áp xe não và vùng tổn thương lớn. Kết quả chụp CT lồng ngực phát hiện lỗ dò lớn từ động mạch phổi vào nhĩ trái. Bệnh nhi được phẫu thuật dẫn lưu áp xe não và điều trị tích cực tại Khoa Hồi sức nhi (Trung tâm Nhi khoa, Bệnh viện Trung ương Huế). Tình trạng lâm sàng của bệnh nhi được cải thiện rõ. Sau khi hội chẩn đa chuyên khoa bao gồm: Hồi sức nhi, tim mạch can thiệp, ngoại lồng ngực mạch máu và nhi tim mạch, các bác sỹ đã thống nhất điều trị nguyên nhân gây áp xe não và tình trạng tím thường xuyên kết hợp đóng dị tật dò động mạch phổi lỗ rất lớn bằng phương pháp bít dù.
Kích thước lỗ dò rất lớn (lên tới 10 mm) đã được đóng thành công bằng dù 22/20 mm. Đây cũng là dụng cụ lớn nhất từng được bít ở bệnh nhân nhỏ tuổi tại Bệnh viện Trung ương Huế. Nồng độ oxy bão hòa trong máu trước can thiệp là 77%, đã cải thiện nhanh chóng ngay sau bít dụng cụ, đạt đến 99%. Các bác sỹ đã giải quyết thành công, triệt để nguyên nhân gây áp xe não, tình trạng tím thường xuyên, giúp bệnh nhi ngăn chặn các biến chứng nguy hiểm do lỗ dò động mạch phổi gây ra như áp xe não tái phát hay suy hô hấp cấp sau này.
Theo Giáo sư Phạm Như Hiệp, Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế, trong diễn biến dịch bệnh COVID-19 hết sức phức tạp hiện nay, ngoài tập trung phòng, chống dịch, đơn vị luôn đảm bảo, chú trọng hoạt động khám chữa bệnh, đặc biệt việc triển khai kỹ thuật mới, kỹ thuật cao để kịp thời cứu chữa nhiều bệnh nhân.