Vụ tai nạn đường sắt đặc biệt nghiêm trọng xảy ra ngày 20/2/2017 tại Thừa Lưu – Cầu Hai (thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế) làm 3 người chết tại chỗ. Ảnh: Hồ Cầu/TTXVN |
Trong đó, tai nạn do chủ quan là 7 vụ, (giảm 20,4%), tai nạn do khách quan 187 vụ (giảm 20,4%). Một số vụ tai nạn giao thông đường sắt đã xảy ra gây thiệt hại lớn về người và tài sản, gây bức xúc trong dư luận xã hội, điển hình là hai vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng do khách quan: tàu SE2 ngày 20/2 tại Thừa Thiên – Huế làm chết 3 người, 4 người bị thương; tàu TN1 ngày 24/4 tại Bình Định làm chết 4 người, 2 người bị thương và một vụ tai nạn do chủ quan ngày 18/3 tại Bình Định tàu SQN4 va ô tô tải tại đường ngang có gác km 1104+640 làm chết 2 người, trật bánh đầu máy.
Cũng trong thời gian này, toàn ngành xảy ra 766 sự cố, tăng 79 vụ (11,5%); trong đó, do khách quan 401 vụ, tăng 98 vụ (32,2%); chủ quan 365 vụ, giảm 19 vụ (4,9%). Các tai nạn, sự cố đã làm chết 95 người, giảm 8 người (7,8%); làm bị thương 125 người, giảm 43 người (25,6%); gây bế tắc giao thông đường sắt 321,6 giờ, chậm tàu 1.668,4 giờ; hỏng 7 đầu máy, 5 toa xe, 100m đường sắt, 110 ô tô, xe máy các loại…
Nguyên nhân tai nạn, sự cố là do ý thức chấp hành pháp luật về trật tự an toàn giao thông và kỹ năng điều khiển phương tiện của một bộ phận người tham gia giao thông đường bộ, đặc biệt là lái xe ô tô khi đi qua đường sắt còn thấp.
Các giao cắt giữa đường bộ và đường sắt tuy đã được cải thiện một bước, nhưng vẫn chưa đáp ứng được sự gia tăng của phương tiện tham gia giao thông, còn tồn tại nhiều lối đi tự mở, các điểm tiềm ẩn nguy cơ tai nạn chưa được xử lý dứt điểm; tình trạng lấn chiếm và tái lấn chiếm hành lang an toàn giao thông đường sắt vẫn còn nhiều. Công tác phối hợp xử lý, ngăn chặn hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông của các đơn vị chức năng liên quan có nơi, có lúc vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Một số vụ sự cố chạy tàu do lỗi chủ quan mang tính chất phức tạp, khó lường, gây hư hỏng đầu máy, toa xe, kết cấu hạ tầng đường sắt, thiệt hại về người, làm ách tắc tuyến và chậm tàu nhiều giờ. Một số nhân viên trực tiếp làm công tác chạy tàu không nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ; chủ quan lơ là trong công việc dẫn đến để xảy ra tai nạn, sự cố chạy tàu.
Phân tích nguyên nhân các vụ tai nạn cho thấy chủ yếu do người điều khiển phương tiện đường bộ, người đi bộ, nằm ngồi trên đường sắt và dọc hai bên hành lang an toàn giao thông đường sắt, chiếm tới 44%; tai nạn tại lối đi tự mở chiếm 40%; tại đường ngang cảnh báo tự động chiếm 8%...
Tai nạn chạy tàu do va chạm ô tô chiếm 15%; do va chạm xe đạp, xe máy chiếm 32%; còn lại là các trường hợp đi, đứng, nằm ngồi trên đường sắt, chiếm 53%.
Tuyến đường xảy ra nhiều tai nạn là tuyến Thống Nhất; Hà Nội-Lạng Sơn và Hà Nội - Hải Phòng, chiếm 94,4%. Địa phương để xảy ra nhiều vụ tai nạn gồm Hà Nội (22 vụ), Nghệ An (20 vụ), Đồng Nai (13 vụ), Thanh Hóa, Nam Định, Khánh Hòa (11 vụ), chiếm 52,4% số vụ tai nạn.
Bên cạnh sự cố chạy tàu do khách quan như lái tàu hãm tàu khi phát hiện các trường hợp uy hiếp đến an toàn công trình (chiếm 32%); va gia súc (chiếm 31%); va chạm với ô tô, xe máy, xe đạp (không thiệt hại về người), thiên tai bão lũ thì cũng xảy ra những sự cố do chủ quan, trong đó, sự cố về hãm vẫn ở mức cao, chiếm 52% sự cố toa xe.
Công tác kiểm tra, giám sát ở một số đơn vị chưa thường xuyên, sâu sát, việc phát hiện và xử lý các yếu tố tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn chưa kịp thời.
Thực hiện các giải pháp cấp bách đảm bảo an toàn giao thông, toàn ngành phối hợp với các địa phương tổ chức cảnh giới thường xuyên 370 vị trí; xóa bỏ 242 lối đi tự mở, thu hẹp 983 vị trí; cắm bổ sung biển báo hiệu “Chú ý tàu hỏa” tại 1.120 vị trí; cắm biển hạn chế phương tiện cơ giới đường bộ tại 173 vị trí.