Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính
NDC cập nhật đã bổ sung các quá trình công nghiệp (IP) trong kiểm kê khí nhà kính, Kịch bản phát triển thông thường (BAU) và các biện pháp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Năm 2014 là thời điểm có kết quả kiểm kê khí nhà kính cập nhật sau khi Việt Nam tham gia Thỏa thuận Paris (năm cơ sở trong NDC là năm 2010).
Bằng nguồn lực trong nước, đến năm 2030 Việt Nam phấn đấu giảm 9% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với BAU và có thể tăng đóng góp lên tới 27% khi nhận được sự hỗ trợ quốc tế thông qua hợp tác song phương, đa phương và thực hiện các cơ chế mới theo Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.
So với NDC đã đệ trình thì sự đóng góp về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong NDC do Việt Nam tự cập nhật mới đều đã tăng cả về lượng giảm phát thải (so với BAU) và tỉ lệ giảm phát thải. Cụ thể, lượng giảm phát thải tăng thêm 21,2 triệu tCO2tđ (từ 62,7 triệu tCO2tđ lên 83,9 triệu tCO2tđ) tương ứng với tỉ lệ giảm phát thải đã tăng thêm 1% (từ 8% lên 9%). Mức đóng góp về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của Việt Nam khi có hỗ trợ quốc tế sẽ tăng từ 25% lên 27%, lượng giảm phát thải đã tăng thêm 52,6 triệu tCO2tđ (từ 198,2 triệu tCO2tđ lên 250,8 triệu tCO2tđ).
NDC cập nhật đã xác định các nhiệm vụ chiến lược của Việt Nam về thích ứng với biến đổi khí hậu, bao gồm: nâng cao hiệu quả thích ứng với biến đổi khí hậu thông qua việc tăng cường quản lý nhà nước và nguồn lực cho thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường khả năng chống chịu và nâng cao năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành phần kinh tế và hệ sinh thái; giảm nhẹ rủi ro thiên tai và giảm thiểu thiệt hại, sẵn sàng ứng phó với thiên tai và khí hậu cực đoan gia tăng do biến đổi khí hậu.
Các giải pháp thích ứng của nước ta nhằm giảm thiểu thiệt hại gây ra bởi các tác động liên quan đến những thay đổi của khí hậu trong tương lai, được xác định cụ thể cho từng lĩnh vực tài nguyên và môi trường, nông nghiệp và phát triển nông thôn, sức khỏe cộng đồng, đô thị, nhà ở, giao thông vận tải, du lịch và nghỉ dưỡng, công nghiệp và thương mại cho từng khu vực (Đồng bằng Bắc Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, khu vực ven biển, miền núi).
Đồng thời, NDC cập nhật của Việt Nam đã đưa vào nội dung hài hòa và đồng lợi ích – sự hài hòa và đồng lợi ích giữa việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu, sự phát triển kinh tế - xã hội được gắn với các mục tiêu phát triển bền vững, nhằm tối ưu hoá chi phí và lợi ích.
Năm 2014, lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,5% tổng phát thải khí nhà kính toàn cầu và mức phát thải bình quân đầu người là 2,84 tấn CO2tđ. Việt Nam đã tích cực thực hiện các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu, định hướng phát triển nền kinh tế theo hướng phát thải khí các bon thấp, tăng trưởng xanh và tăng cường thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính có tiềm năng trong các lĩnh vực năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, nông nghiệp và chất thải cũng như tăng cường khả năng hấp thụ các bon trong lĩnh vực sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp.
Nỗ lực của quốc gia còn được thể hiện qua việc Chính phủ Việt Nam coi ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề có ý nghĩa sống còn, là trách nhiệm của cả nước trong việc thực hiện đồng thời các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, sử dụng hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các nỗ lực được xem xét và đưa vào các văn bản, quy định cụ thể trách nhiệm các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu nói chung và thực hiện NDC cập nhật nói riêng trong giai đoạn kể từ năm 2021 trở đi.
Triển khai và giám sát thực hiện
Tiến sĩ Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi Khí hâu (Bộ Tài nguyên và Môi trường), nhận định: Kể từ năm 2021, Việt Nam sẽ có trách nhiệm thực hiện đóng góp theo NDC.
Tại Quyết định số 2053/QĐ-TTg ngày 28/10/2016 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris với 68 nhóm nhiệm vụ trọng tâm đến năm 2030. Việt Nam coi việc thực hiện NDC là nhiệm vụ trọng tâm về ứng phó với biến đổi khí hậu trong giai đoạn mới, vừa đáp ứng yêu cầu thực tế ứng phó biến đổi khí hậu trong nước, vừa thực hiện trách nhiệm đóng góp với cộng đồng quốc tế.
Triển khai thực hiện NDC cập nhật đòi hỏi Việt Nam phải có nguồn lực lớn cả về tài chính, công nghệ và nhân lực. Các giải pháp thúc đẩy việc thực hiện NDC cập nhật gồm có xây dựng và hoàn thiện chính sách, thể chế; tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức; phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn lực.
Việc thực hiện NDC cập nhật của Việt Nam sẽ là trách nhiệm của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Cơ quan đầu mối giúp Chính phủ là Bộ Tài nguyên và Môi trường với sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ được giao và quy định của pháp luật.
Nguồn lực tài chính cho việc thực hiện NDC cập nhật được huy động từ nhiều kênh khác nhau, tuân thủ Luật Ngân sách, Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư và các văn bản pháp luật liên quan khác. Một số kênh huy động gồm ngân sách nhà nước (ngân sách trung ương và ngân sách địa phương), hỗ trợ quốc tế, nguồn lực của các doanh nghiệp và đóng góp của cộng đồng.
Thực hiện NDC, Việt Nam có cơ hội tăng cường sự hợp tác quốc tế cho ứng phó với biến đổi khí hậu. Hiện đã có nhiều đối tác quốc tế lớn quan tâm, xúc tiến và sẵn sàng tham gia hỗ trợ Việt Nam thực hiện NDC, cũng như các chương trình, dự án hỗ trợ cho ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam trong thời gian tới.
Nhằm thúc đẩy triển khai thực hiện NDC cập nhật, Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xây dựng Chương trình Hỗ trợ thực hiện NDC trong giai đoạn 2021-2030. Đồng thời, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng xây dựng việc cập nhật chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2050, gồm cả việc các mục tiêu nêu tại NDC cập nhật và các nội dung theo yêu cầu của Thỏa thuận Paris.
Để giám sát và đánh giá về việc này, một hệ thống hỗ trợ việc công khai minh bạch được xây dựng nhằm theo dõi các hoạt động và kết quả thực hiện nội dung của NDC cập nhật, bao gồm: thiết lập hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định (MRV) các hoạt động giảm nhẹ khí nhà kính ở cấp quốc gia và cấp ngành; thiết lập hệ thống giám sát và đánh giá (M&E) các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu ở cấp quốc gia, cấp địa phương và cấp dự án; giám sát và đánh giá trong huy động nguồn lực ứng phó với biến đổi khí hậu cấp quốc gia; xây dựng các báo cáo ngân sách cho ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh phục vụ đánh giá nỗ lực toàn cầu định kỳ; xây dựng hệ thống giám sát chuyển giao công nghệ và tăng cường năng lực.
Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ thực hiện thủ tục đệ trình NDC cập nhật với Ban thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC); chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, các đối tác quốc tế tổ chức triển khai thực hiện NDC theo phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ.