Thời điểm hưởng lương hưu theo quy định chung
Thông tư 12/2025/TT-BNV đã hướng dẫn chi tiết Điều 69 của Luật BHXH về thời điểm hưởng lương hưu. Theo đó, quy định cơ bản nhất là: Nếu người lao động nghỉ việc và đã đáp ứng đủ điều kiện về tuổi nghỉ hưu cùng với thời gian đóng BHXH, thì lương hưu sẽ bắt đầu được tính từ tháng liền kề sau tháng người đó đủ tuổi nghỉ hưu.
Trong trường hợp người lao động đã đủ tuổi và đủ thời gian đóng BHXH nhưng tiếp tục làm việc và đóng BHXH bắt buộc, thời điểm hưởng lương hưu sẽ được tính từ tháng liền kề sau tháng người đó chính thức chấm dứt hợp đồng lao động hoặc chấm dứt làm việc. Điều này khuyến khích người lao động duy trì công việc và đóng góp, đồng thời đảm bảo quyền lợi được tính từ khi họ thực sự ngừng làm việc.
Các trường hợp đặc thù được quy định rõ ràng
Để phù hợp với các tình huống đa dạng của người lao động, Thông tư cũng đưa ra hướng dẫn cụ thể cho các trường hợp đặc biệt: Hưởng lương hưu do suy giảm khả năng lao động; Nếu người lao động đủ điều kiện về tuổi và thời gian đóng BHXH, đồng thời có kết luận bị suy giảm khả năng lao động, thời điểm hưởng lương hưu là tháng liền kề sau tháng có kết luận bị suy giảm khả năng lao động.
Làm thủ tục liên quan tới BHXH tại bộ phận một cửa tại Quảng Ninh.
Tuy nhiên, nếu kết luận suy giảm khả năng lao động có trước tháng người lao động đủ tuổi nghỉ hưu, thì thời điểm hưởng lương hưu vẫn được tính từ tháng liền kề sau tháng người đó đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định.
Đối với những hồ sơ chỉ ghi năm sinh hoặc tháng, năm sinh mà không có ngày cụ thể, thời điểm hưởng lương hưu sẽ được tính từ tháng liền kề sau tháng người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định. Việc xác định tuổi trong trường hợp này sẽ tuân theo Khoản 2 Điều 12 của Nghị định số 158/2025/NĐ-CP. Cụ thể: Khi xác định điều kiện hưởng lương hưu đối với trường hợp hồ sơ của người lao động không xác định được ngày, tháng sinh mà chỉ có năm sinh thì lấy ngày 1 tháng 1 của năm sinh để làm căn cứ xác định tuổi của người lao động. Trường hợp không xác định được ngày sinh mà chỉ có tháng, năm sinh thì lấy ngày 1 của tháng, năm sinh để làm căn cứ xác định tuổi của người lao động.
Đáng chú ý, đối với người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu theo Điều 64 của Luật BHXH và có thời gian đóng BHXH từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm, thời điểm hưởng lương hưu sớm nhất sẽ là từ ngày Luật BHXH 2024 có hiệu lực thi hành (tức là từ ngày 1/7/2025). Quy định này mở ra cơ hội sớm hơn cho những người có thời gian đóng BHXH ngắn hơn để tiếp cận lương hưu.
Thời điểm hưởng lương hưu đối với trường hợp có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc còn thiếu tối đa 6 tháng để đủ điều kiện hưởng lương hưu hoặc trợ cấp tuất hằng tháng thì người lao động hoặc thân nhân của người lao động được đóng tiếp một lần cho số tháng còn thiếu với mức đóng hằng tháng bằng tổng mức đóng của người lao động và người sử dụng lao động trước khi người lao động nghỉ việc hoặc chết vào quỹ hưu trí và tử tuất. Thời gian đóng tiếp không được tính là thời gian làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành hoặc thời gian làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Trường hợp người lao động chấm dứt đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc mà thời gian đóng bảo hiểm xã hội còn thiếu trên 6 tháng để đủ điều kiện hưởng lương hưu thì có quyền đóng tiếp bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Nếu người lao động không còn đủ hồ sơ gốc chứng minh thời gian làm việc trong khu vực nhà nước trước ngày 1 tháng 1 năm 1995, thời điểm hưởng lương hưu sẽ là thời điểm ghi trong văn bản giải quyết của cơ quan BHXH.