Chính vì vậy, ngành nước Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm quản lý và sử dụng nước của Đức để hướng tới quản lý nước thông minh, phát triển bền vững ngành nước.
Yêu cầu pháp lý minh bạch
Tổng tài nguyên nước sẵn có tại Cộng hòa Liên bang Đức có khoảng 188 tỷ m3, trong đó nguồn nước không cấp cho cộng đồng là 28 tỷ m3; nguồn nước cấp cho cộng đồng là 5,1 tỷ m3; nguồn nước không sử dụng là 154,9 tỷ m3. Nước chủ yếu được lấy từ nước ngầm, nước suối, nước lọc từ các bờ sông chiếm 61%. Tính đến năm 2015, tổng lượng nước lấy được 5,08 triệu m3, lượng nước sử dụng hàng ngày 120 lít/ người/ngày.
Nước Đức có khoảng 6.200 công ty cấp nước; 7.000 công ty nước thải, một số doanh nghiệp làm cả cấp và thoát nước (tại các thành phố lớn có các công ty nhà nước; tại nông thôn có các công ty tư nhân hoặc hợp tác công -tư). Năm 2014, Đức đầu tư 4,8 tỷ euro/năm trong lĩnh vực nước thải, 2,5 tỷ euro/năm trong lĩnh vực nước cấp; giá nước trung bình là 5 euro/m3(1/3 nước cấp và 2/3 nước thải). Theo đó, gần 100% số hộ dân được đấu nối cấp nước và xử lý nước thải; cấp nước liên tục 24/7, không có thông báo ngừng cấp nước, do đó tỷ lệ thất thoát nhỏ hơn 7% (tỷ lệ thất thoát trong mạng lưới cấp nước là chỉ số quan trọng nhất của mạng lưới cấp nước an toàn và hiệu quả). Chất lượng nước cấp tốt bởi thường xuyên được kiểm tra, phân tích và do các quy định, yêu cầu pháp lý minh bạch.
Ông Ing Boshou Pan, Giám đốc Công ty GKW Consult GmbH (Đức) cho biết: "GKW Consulting nằm trong số các nhà tư vấn độc lập quốc tế hàng đầu về kỹ thuật môi trường, đặc biệt chú trọng trong các lĩnh vực cấp nước, xử lý nước thải, quản lý chất thải rắn, tư vấn quản lý và phát triển khu vực. Chúng tôi có kinh nghiệm toàn diện với các giải pháp bền vững cho toàn bộ nhu cầu trong lĩnh vực nước và nước thải, từ các nghiên cứu và kế hoạch tổng thể đến kỹ thuật chi tiết, dịch vụ tư vấn cho quản lý tiện ích và hỗ trợ vận hành trong phát triển dịch vụ nước, ở khu vực thành thị và nông thôn".
Từ giai đoạn 1995 đến nay, GKW đã thực hiện thành công nhiều dự án tại Việt Nam như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ, Hải Dương, Hòa Bình, Hưng Yên… Cụ thể, năm 2008-2009, thực hiện Dự án nghiên cứu khả thi cho thất thoát, thất thu nước sạch Hà Nội cho Công ty kinh doanh nước Hà Nội; năm 2008-2012 thực hiện dự án cải thiện môi trường đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc cho UBND tỉnh Vĩnh Phúc; từ năm 2013- đến nay thực hiện Chương trình cải thiện quản lý nước thải và chất thải rắn tại các tình phía Bắc II…
Ứng dụng mạng GSM và LoRaWan
Theo ông David Balmert, Tư vấn cấp cao Công ty Ribeka GMbH (Đức), hướng tới đô thị thông minh nhằm quản lý các thách thức của các đô thị lớn, nhóm nghiên cứu của Công ty đã triển khai thực hiện Dự án “Giám sát nước ngầm trực tuyến và hệ thống đánh giá dữ liệu dựa trên một mạng lưới cảm biến (GSM) và mạng diện rộng tầm xa (LoRaWan) tại thành phố Karlsruhe, Đức”.
Karlsruhe là thành phố lớn thứ hai của bang Baden- Wuerttemberg, nằm ở phía Nam của Đức và gần biên giới với Pháp. Có khoàng 4.000 dân cư của Karlsruhe và vùng phụ cận được cung cấp nước uống, xấp xỉ 24 triệu m3 nước uống/năm. Thách thức của Dự án chính là sự cần thiết của việc giám sát thường xuyên và tin cậy bằng dữ liệu (rất nhiều giếng trong số 1.200 giếng cần được đo đạc thường xuyên), lượng công việc báo cáo gia tăng; việc sử dụng bộ cảm biến tự động thường cần truyền dẫn GSM đặc biệt khu vực trong rừng, nhiều cây, không có hoặc có phủ sóng GSM kém...
Do đó, giải pháp của Dự án trước hết chính là truyền dẫn dữ liệu, theo đó xây dựng mạng LoRaWan, đây là dữ liệu trao đổi cảm biến thông qua thông tin vô tuyến, tốc độ truyền dữ liệu thấp (từ 0,3 đến 0,5 kbit/s) nhưng phạm vi rất dài (giữa 2 km ở thành phố và 40 km ở nông thôn) vẫn nhận diện tốt. Hơn nữa, với lợi thế rất tiết kiệm năng lượng (thời lượng pin lên tới 15 năm), quản lý dữ liệu (ăng-ten và cổng) được lắp đặt trên hai nhà máy nước để phân tích và nhận tất cả các dữ liệu cảm biến LoRaWan. Thử nghiệm đầu tiên đã được thực hiện thành công, kết nối rất tốt ngay cả trong khu rừng rậm.
Ngoài ra, với nền tảng quản lý, Dự án hiển thị tất cả dữ liệu trực tiếp sẵn có sau đó hệ thống tạo ra sơ đồ chuỗi thời gian của tất cả các tham số (sơ đồ thủy văn và địa chất thủy văn); đồng thời từ các bản đồ tổng quan về tất cả các trạm và trạng thái trạm (gồm có biểu đồ (thanh, chồng và tròn); bản đồ (đường viền, chênh lệch). Cuối cùng là báo cáo để khách hàng, các bên liên quan thấy các dữ liệu được thu thập ra sao... Đặc biệt, với Dự án này, khách hàng dễ dàng truy cập và quản lý, có thể nhập, xuất phân phối và chia sẻ dữ liệu và kết nối với tất cả các phần cứng giám sát...
Với giải pháp của Dự án trên, thời gian tới ngành nước Việt Nam cần lựa chọn quy trình phù hợp, tiết kiệm năng lượng vận hành, linh hoạt để thích ứng với các tình huống khác nhau…Theo đó, ứng dụng công nghệ tiên tiến của Cộng hòa Liên bang Đức để quản trị, tăng cường thể chế và xây dựng năng lực các dự án nước, thiết kế và mô hình hóa, giảm tỷ lệ nước thất thoát thất thu; đồng thời triển khai kế hoạch quản lý nước ngầm và lưu vực sông. Bên cạnh đó, tiến hành xây dựng hệ thống giám sát đối với tài nguyên nước (chất lượng nước, lượng nước và dữ liệu khí hậu) để tiết kiệm năng lượng và hướng tới phát triển đô thị thông minh.