Số lượng suy giảm nhanh
Nội dung ấn phẩm nêu rõ: Voi là loài vật gắn bó với người dân Tây Nguyên từ bao đời, được coi là một trong những biểu tượng văn hóa của vùng đất này. Trước đây Tây Nguyên là nơi có nhiều voi sinh sống, nhưng do tác động của con người trong những năm gần đây, quần thể voi Tây Nguyên ngày càng suy giảm. Nếu không có những biện pháp bảo tồn quyết liệt và hữu hiệu hơn, trong thời gian không xa nữa, hình ảnh đàn voi vốn thân thuộc với người Tây Nguyên sẽ chỉ còn trong tiềm thức.
Khu vực Tây Nguyên gồm năm tỉnh: Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum và Lâm Đồng với tổng diện tích tự nhiên 54.641km2, dân số 5,8 triệu người. Theo kết quả công bố hiện trạng rừng năm 2018, tổng diện tích có rừng của các tỉnh Tây Nguyên là 2.557.322 ha, tỷ lệ che phủ rừng toàn vùng đạt 46%. Tây nguyên là một trong những vùng có tính đa dạng sinh học rất cao của Việt Nam. Khu vực này có 6 vườn quốc gia, 5 khu bảo tồn thiên nhiên, 2 khu bảo tồn loài và sinh cảnh, có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn nhiều loài động vật hoang dã quý hiếm nằm trong Sách Đỏ của thế giới và Việt Nam.
Phân loài voi sinh sống tại Việt Nam là voi Châu Á, được xếp vào bậc Nguy cấp trong danh mục sách Đỏ của IUCN, bậc Cực kỳ nguy cấp theo Sách Đỏ Việt Nam và nằm trong Phụ lục I của Công ước CITES. Những năm trước đây voi có vùng phân bố khá rộng từ Lai Châu dọc dãy Trường Sơn tới Bình Phước, Tây Ninh và một số tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ như Bình Thuận, Ninh Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu. Song tài liệu điều tra 2001 - 2002 cho thấy các tỉnh Lai Châu, Thanh Hóa, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Gia Lai, Lâm Đồng và một số nơi khác hầu như không còn, theo Sách Đỏ Việt Nam.
Trong khoảng gần hơn 30 năm trở lại đây, số lượng voi Việt Nam nói chung và voi Tây Nguyên suy giảm nhanh theo từng năm. Những năm 1990, ước tính số voi hoang dã của Việt Nam còn khoảng 1.500 - 2000 cá thể. Hiện chỉ còn khoảng 124 đến 148 cá thể voi hoang dã, phân bố trên 8 tỉnh bao gồm Sơn La, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Đắk Lắk, Đắk Nông, Đồng Nai và Bình Phước. Trong đó chỉ có 3 khu sinh cảnh còn trên 10 cá thể voi là Vườn quốc gia Pù Mát và vùng phụ cận (tỉnh Nghệ An) còn 13 - 15 cá thể; Vườn quốc gia Cát Tiên, Khu Bảo tồn và Văn hóa Đồng Nai, Công ty Lâm nghiệp TNHHMTV La Ngà (Đồng Nai) còn 14 cá thể; Vườn quốc gia Yok Đôn (tỉnh Đắk Lắk) còn khoảng 80-100 cá thể. Số lượng voi hoang dã lớn nhất cả nước là Đắk Lắk hiện có 5 quần thể, trong đó quần thể nhỏ nhất gồm 5-10 cá thể, quần thể lớn nhất có 32-36 cá thể, phân bố chủ yếu ở Vườn quốc gia Yok Đôn.
Về voi nuôi (voi thuần dưỡng), theo thống kê năm 2018, cả nước có 91 voi nuôi tại 11 tỉnh, thành phố. Trong khi con số này của năm 2000 là 165. Tỉnh Đắk Lắk, nơi được coi là “thủ phủ” của voi thuần dưỡng, số voi cũng giảm mạnh. Cụ thể, trong thời gian 1979 - 1980 Đắk Lắk có 502 con voi thuần dưỡng; năm 1990 có 299 con; năm 1997 còn 169 con và năm 2000 chỉ còn 138 con, giảm 364 con trong vòng 20 năm (từ 1980 - 2000). Đến năm 2018, con số voi nuôi của Đắk Lắk giảm gần 100 cá thể so với năm 2000, chỉ còn 45.
Môi trường sống bị thu hẹp
Theo các chuyên gia, để bảo tồn voi hoang dã, vấn đề sống còn là duy trì sinh cảnh của chúng. Nhưng những cánh rừng già nguyên sinh, sinh cảnh cố hữu của voi đã và đang bị khai thác tràn lan, ngày càng suy giảm về diện tích, suy thoái về chất lượng hoặc bị xâm lấn bởi hoạt động của con người. Theo kết quả kiểm kê rừng của Tổng cục Lâm nghiệp, trong 7 năm (từ năm 2008-2014) diện tích rừng tự nhiên tại Tây Nguyên mất hơn 358.700ha, tương đương mỗi năm mất hơn 51.200ha rừng.
Một số dự án thủy điện khi đi vào hoạt động cũng ảnh hưởng không nhỏ đến đàn voi hoang dã. Số liệu của Sở Công thương Đắk Lắk cho thấy, sông Sêrêpôk có 6 con đập lớn tạo hồ chứa cho các nhà máy thủy điện chắn ngang dòng là Buôn Tuôr Sar, Buôn Kuôp, Hòa Phú, Đray H’ling, Sêrêpôk 3, Sêrêpôk 4. Riêng thủy điện Sêrêpôk 4A lấy nước từ dòng chính Sêrêpôk dẫn sang kênh tạo cao trình trước khi đổ xuống tuabin nhà máy, rồi chảy theo kênh đào 4km nữa trước khi trả lại sông.
Đoạn sông cong bị mất dòng do thủy điện S4A dài khoảng 20 km, vốn là một phần ranh giới tự nhiên của Vườn Quốc gia Yok Đôn. Các thủy điện trên sông Sêrêpôk làm thay đổi dòng chảy, kéo theo sự thay đổi sinh cảnh ven sông, thu hẹp không gian sinh tồn của loài voi và ảnh hưởng đến các “hố nước” vốn rất quan trọng với tập tính sinh tồn của loài voi, nhất là vào mùa khô.
Việc voi bị mất sinh cảnh, nguồn thức ăn và hành lang di chuyển làm nảy sinh những xung đột nghiêm trọng, thậm chí nguy hiểm giữa voi và con người. Với tập tính di chuyển rộng, voi đi qua các vùng trồng trọt, phá hoa màu, phá lán trại gây thiệt hại về kinh tế và ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân. Các công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng cũng chịu thiệt hại do voi, theo thói quen, vẫn tiếp tục di chuyển qua những nơi từng là hành lang di chuyển của chúng.
Vì vậy những năm gần đây, ở Tây Nguyên thường xuất hiện tình trạng voi hoang dã bỏ rừng kéo về phá nương rẫy để kiếm ăn, gây nguy hại đến tài sản và tính mạng của con người. Điển hình như năm 2013, đàn voi rừng khoảng 17 cá thể đã kéo về cách trung tâm huyện Ea Súp 5 km gây rối. Tại xã Ea H’Lê, huyện Ea H’leo, trước năm 2012, voi rừng thường xuyên về phá hoại hoa màu của người dân. Nhưng thời gian gần đây không còn thấy voi xuất hiện, nguyên nhân là do khu vực này đã được nhà nước giao cho các công ty lâm nghiệp. Các công ty này đã tiến hành khai hoang rừng làm nhiễu loạn sinh cảnh khiến voi bỏ đi nơi khác.
Từ tháng 6/2012 đến tháng 12/2018, voi đã làm thiệt hại khoảng 100 ha cây trồng các loại cũng như một số chòi rẫy, công cụ, dụng cụ sản xuất nông nghiệp của nhân dân và doanh nghiệp trên địa bàn. Voi rừng tấn công làm chết 1 voi nhà và làm bị thương nhiều voi nhà thả kiếm ăn trong rừng. Từ năm 2011 đến 2016, voi làm chết 1 người dân huyện Ea Hleo và 1 người dân huyện Ea Súp, làm bị thương một người dân huyện Ea Súp.
Bảo tồn chưa hiệu quả
Bảo tồn voi là vấn đề được Việt Nam quan tâm, thể hiện qua các chương trình, đề án, kế hoạch hành động bảo tồn voi từ rất sớm. Những nỗ lực này được đánh giá là vẫn chưa đủ để ngăn đà suy giảm của quần thể voi. Từ những năm 90, theo Quyết định số 1204 ngày 16/7/1996 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chương trình hành động bảo tồn voi Việt Nam giai đoạn 1996 -1998 đã được thực hiện. Theo đó, mục tiêu của chương trình là bảo tồn voi tại các vùng trọng điểm tỉnh Đắk Lắk thông qua các hoạt động như rà soát lại hệ thống rừng đặc dụng, xây dựng mới các khu bảo tồn thiên nhiên, tăng cường đầu tư, trợ giúp kỹ thuật để đảm bảo an toàn cho nơi sống của voi; xây dựng, bổ sung những quy định pháp luật nhằm ngăn chặn việc săn bắt, mua bán động vật hoang dã và các sản phẩm liên quan; chỉ đạo các địa phương giải quyết cụ thể những vụ xung đột voi với người; tuyên truyền bảo tồn voi trên phương tiện thông tin đại chúng…
Nối tiếp là Kế hoạch hành động khẩn trương bảo tồn voi đến năm 2010 theo Quyết định số 733 ngày 16/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Sau 5 năm triển khai thực hiện, Kế hoạch này cũng thu được một số kết quả, trong đó có việc xây dựng hoàn thiện Dự án bảo tồn voi tại các tỉnh có số lượng quần thể voi lớn nhất là Đắk Lắk, Đồng Nai và Nghệ An; đồng thời thành lập Trung tâm bảo tồn voi Đắk Lắk nhằm hỗ trợ công tác chăm sóc, hỗ trợ sinh sản cho đàn voi.
Tiếp đến năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 940 ngày 29/7/2012 về Phê duyệt Kế hoạch hành động khẩn cấp đến năm 2020 để bảo tồn voi ở Việt Nam. Tháng 5/2013, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tổng thể bảo tồn voi Việt Nam giai đoạn 2013-2020” tại Quyết định số763, với tổng kinh phí khái toán 278 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước và các tổ chức, cá nhân nước ngoài tài trợ.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến năm 2018, sau 3 năm thực hiện, Đề án đã đạt được một số kết quả như tình trạng săn bắn, giết hại voi giảm; số lượng cá thể voi có tín hiệu phát triển tăng; xung đột voi/người cũng được hạn chế. Ở cấp địa phương, Đắk Lắk vào cuộc khá sớm, năm 2010 UBND tỉnh phê duyệt Dự án Bảo tồn voi tại Đắk Lắk giai đoạn 2010-2015 với tổng kinh phí 61 tỷ đồng. Dự án được triển khai nhằm quản lý bền vững quần thể voi hoang dã, phát triển đàn voi nhà, bảo tồn bản sắc văn hoá bản địa, tuyên truyền giáo dục về môi trường sinh thái. Đến năm 2013, UBND tỉnh phê duyệt “Dự án khẩn cấp bảo tồn voi tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020” với tổng kinh phí gần 85 tỷ đồng (thay cho Dự án trước đó).
Các chuyên gia cho rằng so với nhiều loài khác, chính sách bảo tồn voi thể hiện rõ cam kết của Nhà nước khi bố trí cả nguồn lực tài chính và con người, nhưng hiệu quả chưa cao vì nhiều nguyên nhân. Trước hết là cho đến nay, các cơ quan bảo tồn vẫn chưa có số liệu chính xác về quần thể voi Tây Nguyên. Phương pháp thống kê số lượng voi chủ yếu qua quan sát bằng mắt thường hoặc dấu chân và chưa có kinh phí để sử dụng phương pháp phân tích ADN (ước tính trung bình 3000 USD/mẫu).
Thông tin từ Trung tâm Bảo tồn Voi Đắk Lắk và Vườn quốc gia Yok Đôn cho biết, một số trường đại học nước ngoài và một vài tổ chức bảo tồn quốc tế sẵn sàng hỗ trợ tài chính để phân tích AND voi, nhưng kinh phí chỉ đủ cho số lượng mẫu không lớn nên số liệu không thể toàn diện. Mặt khác, các chính sách vẫn theo hướng đơn nhất, chưa huy động được sự vào cuộc của chính quyền các cấp từ xã, huyện, tỉnh và đặc biệt của các chủ rừng gồm các công ty lâm nghiệp, ban quản lý các rừng phòng hộ, cộng đồng người dân địa phương.
Người dân ở các khu vực có voi sinh sống thường nghèo, sống phụ thuộc vào tài nguyên rừng, canh tác nông nghiệp trong hoặc gần rừng, khó có thể yêu cầu họ phải có ý thức bảo tồn voi khi chưa có chính sách hỗ trợ sinh kế. Chẳng hạn như hỗ trợ chuyển đổi cây trồng sang những loài không phải là thức ăn ưa thích của voi. Việc phối hợp thực thi chính sách giữa các cơ quan quản lý chưa ăn khớp. Từ khi một quyết định chính sách được ban hành cho tới khi có hiệu lực trong thực tế là một quá trình rất dài và cần rất nhiều thủ tục. Đơn cử là Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk dù được tỉnh chấp thuận cấp kinh phí mua lại một cá thể voi nhà, song phải mất nhiều tháng thì số tiền mới được giải ngân và khi đó chủ sở hữu voi không đồng ý bán vì trượt giá.
Khuyến nghị về các giải pháp
Để bảo vệ và phát triển quần thể voi Tây Nguyên, phải tiến hành giải pháp xét nghiệm mẫu phân để thống kê chi tiết các khu vực có voi, nhằm xác định tương đối chính xác số lượng cá thể, cấu trúc giới tính, cấu trúc tuổi. Đánh giá tình trạng sinh cảnh và khả năng bảo tồn tại chỗ của các đàn voi. Áp dụng công nghệ hiện đại như đeo vòng cổ gắn chíp điện tử để giám sát di chuyển của voi. Nghiên cứu khả năng thiết lập hành lang sinh cảnh liên kết vùng hoạt động của các đàn voi nhỏ, tính tới khả năng di dời các đàn/cá thể ở những địa phương khác trong nước có quá ít cá thể voi để bổ sung cho các đàn voi ở khu vực trọng điểm là Vườn quốc gia Yok Đôn - Ea Súp.
Nghiên cứu tập tính di chuyển theo mùa, vùng hoạt động, chất lượng sinh cảnh (nơi trú ẩn, trữ lượng thức ăn, nguồn nước, nguồn khoáng, mức độ tác động). Voi là loài di cư nên cần soạn thảo và ký kết cơ chế bảo tồn xuyên biên giới giữa Việt Nam và Campuchia để đảm bảo quản lý hiệu quả hành lang di chuyển của chúng. Đánh giá mức độ xung đột và các nguyên nhân gây ra xung đột giữa voi và người, xây dựng các biện pháp hạn chế xung đột giữa voi và người.
Tổng kết kinh nghiệm giải quyết xung đột giữa voi-người trên thế giới thành tài liệu hướng dẫn tiếng Việt và tuyên truyền cho người dân các khu vực thường xảy ra xung đột để giảm thiểu tối đa số vụ và thiệt hại. Có thể tính tới biện pháp xây hào, xây dựng hàng rào điện ngăn voi, chuyển đổi sang các giống cây trồng không thu hút voi... để hạn chế xung đột. Đồng thời thúc đẩy công tác tuyên truyền pháp luật để nâng cao ý thức bảo tồn của người dân.
Bảo tồn sinh cảnh của voi nhằm bảo tồn và phát triển số lượng cá thể voi hoang dã hiện có tại tỉnh Đắk Lắk. Đặc biệt cần giữ được nguyên vẹn 173.000 ha diện tích cư trú, di chuyển, kiếm ăn của quần thể voi này. Ngăn chặn các hành vi săn bắn, giết hại voi trái pháp luật thông qua việc đẩy mạnh thực thi pháp luật, xử lý thích đáng các hành vi săn bắt, buôn bán các sản phẩm và dẫn xuất của voi. Với đàn voi nhà, cần quy hoạch khu chăn thả, chăm sóc sức khỏe, sinh sản tại huyện Lắk (150 ha) và huyện Buôn Đôn (200 ha) là 2 huyện duy nhất còn phân bố voi nhà trong tỉnh. Tăng cường năng lực cứu hộ, chăm sóc sức khoẻ, hỗ trợ sinh sản phát triển quần thể voi để giữ gìn không chỉ một nguồn gen quý, mà còn cả một biểu tượng văn hóa của vùng đất "đại ngàn".