Triển khai Nghị quyết 57 vào thực tế cuộc sống:

Bài 1: Gỡ nút thắt về thể chế

Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57) đang tháo gỡ một loạt khó khăn, cản trở đưa khoa học vào đời sống như: Thể chế, cơ chế, hạ tầng số, nhân lực và thương mại hoá kết quả nghiên cứu…

Vướng thủ tục

Chủ trương phát triển khoa học công nghệ luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Năm 2012, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) có ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luật Khoa học và Công nghệ được ban hành năm 2013 đã thể chế hóa Nghị quyết của Trung ương Đảng, tạo hành lang pháp lý cho khoa học và công nghệ phát triển với những cơ chế, chính sách mới phù hợp với sự phát triển kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế vào thời điểm đó.

Chú thích ảnh
Cán bộ kỹ thuật của Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Phú Yên kiểm tra giống sắn chống bệnh khảm lá được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm. Ảnh: Xuân Triệu/TTXVN

Tuy nhiên, những quy định về thủ hành chính, cấp phép đang tạo thành rào cản đưa kết quả nghiên cứu vào thực tế. Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam Chu Hoàng Hà cho biết: Về lĩnh vực phát triển công nghệ, theo thống kê trong 5 năm vừa qua, các nhà khoa học của Viện đã được cấp khoảng 300 bằng sở hữu trí tuệ, trong đó có nhiều bằng độc quyền sáng chế quốc tế. Tuy đạt được một số kết quả, nhưng đưa ứng dụng vào thực tế vướng mắc về cơ chế chính sách liên quan như: Luật Khoa học Công nghệ, Luật Viên chức, Luật Quản lý tài sản công, Luật Ngân sách, Luật Đầu tư...

“Ví dụ, công nghệ chỉnh sửa gene để tạo ra các giống cây trồng mới có đặc tính rất đặc biệt như trồng cây đậu tương để tạo ra dầu tương đương chất lượng ôliu. Các công nghệ này Mỹ và Trung Quốc đang đi đầu. Việt Nam đạt trình độ tương đương, nhưng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (trước đây) không cấp phép đưa các giống này ra thị trường vì hiện nay chưa có quy định luật liên quan. Do đó, để áp dụng kết quả nghiên cứu vào phát triển kinh tế xã hội, cần xem xét sửa luật để làm sao các công nghệ phát triển trong nước có thể được ưu tiên đưa vào ứng dụng, tạo ra động lực cho phát triển kinh tế xã hội”, ông Chu Hoàng Hà cho biết.

GS.TS Nguyễn Anh Trí, nguyên Viện trưởng Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương cũng có chung nhận định: Ở Việt Nam, hầu hết kết quả nghiên cứu khoa học chưa đưa vào thực tiễn. Đơn cử như nghiên cứu về panen hồng cầu của Viện Huyết học – Truyền máu trung ương. Đây là một hệ thống kháng nguyên ở trên bề mặt hồng cầu mà các chuyên gia nghiên cứu sàng lọc kháng thể bất thường góp phần nâng cao chất lượng an toàn truyền máu về mặt miễn dịch.

“Sau 5 năm mời các chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực này, Viện Huyết học - Truyền máu trung ương đã nghiên cứu tạo ra được 1 bộ panen hồng cầu rẻ hơn so của nước ngoài. Điều quan trọng nhất là phù hợp với đặc điểm hồng cầu của người Việt Nam nhưng để thương mại hóa lại vướng thủ tục cấp phép. Do vậy, chúng tôi chỉ sản xuất để giúp nhau trong Viện chứ không thể thương mại hóa”, GS.TS Nguyễn Anh Trí chia sẻ.

Lối đã mở

Qua khảo sát, bà Trần Thị Nhị Hà, Phó Trưởng Ban Dân nguyên Quốc hội cho rằng, rào cản lớn nhất để đưa ứng dụng các nghiên cứu vào thực tế vẫn nằm ở hệ thống pháp lý và quy trình hành chính còn chậm trễ. Cụ thể, các sản phẩm khoa học, công nghệ nhiều lĩnh vực khác nhau như công nghệ thông tin, y tế, sinh học, năng lượng tái tạo nhưng chưa có cơ chế thống nhất trong việc đăng ký lưu hành. Một số sản phẩm phải đăng ký qua nhiều cơ quan như là Bộ Khoa học và Công nghệ, nếu là sản phẩm đổi mới sáng tạo; Bộ Y tế nếu là thiết bị y tế, dược phẩm, thực phẩm chức năng; Bộ Công Thương, nếu là sản phẩm công nghệ sản xuất năng lượng tái tạo… Ví dụ một sản phẩm phần mềm trí tuệ nhân tạo, hỗ trợ y tế có thể phải vừa đăng ký tại Bộ Y tế, vừa đăng ký tại Bộ Thông tin và Truyền thông (trước đây).

Do đó, cần có một quy định về quy trình chung cho các sản phẩm khoa học, công nghệ, tránh chồng chéo giữa các bộ, ngành. Việc cải cách hành chính cần làm sớm để thời gian cấp bằng sáng chế phải rút ngắn tối đa xuống 3 năm, trong đó thời gian thẩm định nội dung không quá 12 tháng. Có như vậy mới thương mại hoá được sản phẩm khoa học công nghệ”, bà Trần Thị Nghị Hà chia sẻ.

Chú thích ảnh
Quốc hội thảo luận về Nghị quyết thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Kỳ hợp bất thường lần thứ 9 vừa qua. Ảnh: TTXVN

Tại kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 193/2025/QH15 thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia.

Ông Nguyễn Phương Tuấn, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho biết: Nghị quyết của Quốc hội nhằm khẩn trương thể chế hóa một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách trong Nghị quyết số 57-NQ/TW với nhiều nội dung nổi bật về: Cấp kinh phí nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ theo cơ chế quỹ; Khoán chi trong thực hiện nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Quyền sở hữu, quản lý, sử dụng đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trang bị để thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; Thương mại hóa từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Sử dụng ngân sách trung ương triển khai các nền tảng số dùng chung và chỉ định thầu các dự án chuyển đổi số…

Nghị quyết đã giải quyết, tháo gỡ những điểm khó khăn nhất để nhà khoa học có đủ không gian để thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học của mình mà không bị chi phối bởi các hoạt động không liên quan đến khoa học.

Trong tháng 5/2025, Bộ Khoa học và Công nghệ dự kiến trình Chính phủ và Quốc hội thông qua Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; đồng thời xây dựng Chiến lược phát triển Khoa học công nghệ giai đoạn 2026-2030 nhằm tạo đà cho tăng trưởng bền vững trong những năm tới.

Bài 2: Đầu tư hạ tầng số thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ

Xuân Cường/Báo Tin tức
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị doanh nghiệp
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị doanh nghiệp

Việc sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) từ tự phát trong nhân viên giờ đã trở thành nhu cầu của doanh nghiệp để nâng cao hiệu suất, giảm chi phí.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN