Bảo đảm quyền con người ở Việt Nam được đo bằng chất lượng cuộc sống và cơ hội phát triển

Theo báo cáo của Hiệp hội Internet Việt Nam, nước ta hiện có gần 80 triệu người sử dụng Internet, nằm trong nhóm các quốc gia có tỷ lệ người dân sử dụng Internet cao trên thế giới. Trung bình, người Việt dành khoảng 7 tiếng mỗi ngày trên mạng để học tập, làm việc và tương tác.

Chú thích ảnh
Học sinh Trường THPT Nguyễn Huệ (phường Yên Bái, tỉnh Lào Cai) hào hứng học tập tại phòng thực hành Stem. Ảnh: Đinh Thùy/TTXVN

Còn báo cáo công bố của Bộ Khoa học và Công nghệ cho thấy, Việt Nam đạt 104,7 triệu thuê bao Internet băng rộng di động tính đến tháng 4/2025. Xu hướng sử dụng Internet di động tiếp tục tăng trong bối cảnh phát triển hạ tầng số đang được đẩy mạnh.

Tại sự kiện Internet Day 2025 diễn ra sáng 17/12, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Phạm Đức Long cho biết, Internet Việt Nam ngày càng được cải thiện rõ rệt và tiệm cận trình độ nhiều nước phát triển. Theo các báo cáo, Việt Nam đứng thứ 10 toàn cầu về tốc độ Internet băng rộng cố định và thứ 15 về tốc độ Internet di động băng rộng.

Đến nay, tỷ lệ người dân trưởng thành sở hữu điện thoại thông minh đạt 89,8%, mạng 5G sau hơn 1 năm được thương mại hóa tại Việt Nam đã phủ sóng đến gần 59% dân số; hạ tầng băng rộng di động phủ sóng gần như toàn bộ lãnh thổ, kể cả vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, tạo nền tảng quan trọng cho phát triển kinh tế số, chính phủ số và xã hội số.

Mức độ tham gia của xã hội vào môi trường số ngày càng sâu. Đáng chú ý, theo đánh giá của các cơ quan quản lý nhà nước và thực tiễn đời sống xã hội, có tới 95 - 98% dân số có khả năng tiếp cận các dịch vụ số cơ bản, mạng xã hội, nền tảng thông tin trực tuyến - một con số mà ngay cả nhiều quốc gia phát triển vẫn chưa đạt được một cách đồng đều.

Những con số trên là một phần rất nhỏ cho thấy quyền tiếp cận thông tin, Internet, quyền tiếp cận thành tựu khoa học - công nghệ của người dân Việt Nam - một trong những quyền cơ bản có ý nghĩa nền tảng trong xã hội hiện đại - không chỉ được bảo đảm về mặt pháp lý mà đã trở thành hiện thực trong đời sống hàng ngày. Từ trẻ em, thanh thiếu niên đến người cao tuổi, từ đô thị đến nông thôn, miền núi, người dân đều có điều kiện tham gia không gian số, bày tỏ quan điểm cá nhân, tiếp cận tri thức, dịch vụ công, thương mại điện tử, giáo dục và y tế trực tuyến. Đây chính là minh chứng sinh động cho quyền con người trong thời đại số.

Kết quả đó không phải là ngẫu nhiên, mà được đặt trên nền tảng các quyết sách chiến lược của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, ban hành ngày 22/12/2024 khẳng định rõ phát triển khoa học - công nghệ và chuyển đổi số phải lấy người dân làm trung tâm, mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng cuộc sống, mở rộng cơ hội tiếp cận thông tin, tri thức và dịch vụ cho mọi người dân.

Nghị quyết này nhấn mạnh quan điểm người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Việc coi quyền được hưởng thụ thành tựu khoa học - công nghệ là một nội dung của quyền con người thể hiện bước tiến quan trọng trong tư duy phát triển, phù hợp với xu thế chung của thế giới.

Song song với đó, Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới tạo ra không gian rộng mở hơn để người dân, doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận tri thức, công nghệ, thị trường và các chuẩn mực tiến bộ của nhân loại. Hội nhập quốc tế không chỉ mang ý nghĩa kinh tế, mà còn góp phần nâng cao chuẩn mực bảo đảm quyền con người thông qua việc tham gia, thực thi các điều ước quốc tế, các cơ chế giám sát, đối thoại nhân quyền đa phương và song phương. Trong các kỳ rà soát định kỳ phổ quát về nhân quyền của Liên hợp quốc, Việt Nam đều tham gia đầy đủ và xây dựng kế hoạch thực hiện nghiêm túc, minh bạch.

Bên cạnh các Nghị quyết trên, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã có nhiều nỗ lực lớn để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người thông qua ban hành nhiều chủ trương, chính sách mới, có tính đột phá để tập trung nguồn lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới; sửa đổi, bổ sung, thông qua Hiến pháp và hệ thống các văn bản pháp luật, thực hiện quyết liệt việc sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, buôn lậu, hàng giả; bảo vệ môi trường sống, quyền lợi của người dân, ban hành nhiều chính sách phúc lợi xã hội mới.

Ở lĩnh vực thực thi pháp luật, Nghị quyết 66-NQ/TW về cải cách thực thi pháp luật nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân trong mọi khâu của quá trình quản lý nhà nước. Việc cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện pháp luật, nâng cao trách nhiệm giải trình của cơ quan công quyền, bảo đảm quyền tiếp cận công lý, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là những nội dung cốt lõi, góp phần củng cố nền tảng nhân quyền trong một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết 71-NQ/TW về giáo dục – đào tạo, Nghị quyết 72-NQ/TW về y tế đã mở rộng các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của người dân. Quyền được lao động, quyền được lựa chọn việc làm, quyền được học tập suốt đời, quyền được chăm sóc sức khỏe ngày càng được bảo đảm tốt hơn. Luật Việc làm, cùng các nghị định hướng dẫn, được xây dựng theo hướng bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của người lao động, phù hợp với các công ước cốt lõi của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) mà Việt Nam là thành viên.

Một điểm nổi bật khác trong bảo đảm quyền con người ở Việt Nam là quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Cả nước hiện có hơn 95% dân số theo tín ngưỡng, tôn giáo; 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được công nhận và cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động với trên 27,7 triệu đồng bào có đạo; khoảng 200.000 cơ sở thờ tự trên cả nước. Đất đai phục vụ hoạt động tôn giáo được Nhà nước giao, cấp không thu tiền sử dụng đất; hoạt động sinh hoạt tôn giáo diễn ra bình thường, công khai, với sự hỗ trợ của chính quyền các cấp. Việt Nam là một trong số ít quốc gia đăng cai thành công các sự kiện tôn giáo quốc tế lớn như Đại lễ Vesak Liên hợp quốc, với sự tham dự của hàng trăm đoàn đại biểu từ hàng chục quốc gia, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Thực tiễn đó cho thấy các cáo buộc cho rằng Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo” là phiến diện, thiếu căn cứ. Cần phân biệt rõ giữa quyền tự do tín ngưỡng - được pháp luật bảo đảm - và hành vi lợi dụng quyền đó để chống phá Nhà nước, gây chia rẽ dân tộc.

Cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, càng bảo đảm quyền con người, càng mở rộng dân chủ, thì các thế lực thù địch, các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí càng tìm cách xuyên tạc, bóp méo thực tiễn, lợi dụng chiêu bài “nhân quyền” để gây sức ép chính trị. Họ thường bỏ qua những tiến bộ cụ thể, những con số biết nói về phát triển con người ở Việt Nam, để tập trung vào các vụ việc đơn lẻ, phiến diện, hoặc áp đặt những chuẩn mực không phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Bản chất của những luận điệu đó không phải là vì quyền con người, mà là lợi dụng nhân quyền để can thiệp, chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường phát triển mà nhân dân ta đã lựa chọn.

Thực tiễn phát triển của Việt Nam cho thấy quyền con người không phải là khẩu hiệu trừu tượng, mà được đo bằng chất lượng cuộc sống, bằng cơ hội phát triển, bằng việc “không ai bị bỏ lại phía sau”. Dù đất nước còn nhiều khó khăn, nguồn lực còn hạn chế, nhưng Việt Nam đang từng bước hoàn thiện thể chế, mở rộng không gian quyền, nâng cao mức thụ hưởng của người dân.

Chu Thanh Vân (TTXVN)
Bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực công vụ, lao động, việc làm và an sinh xã hội
Bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực công vụ, lao động, việc làm và an sinh xã hội

Sáng 18/12, tại Hà Nội, Bộ Nội vụ tổ chức Hội nghị tổng kết công tác nhân quyền năm 2025 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN