Hồn thiêng Côn Đảo

Đêm Côn Đảo đã vào thật sâu. Tiếng sóng ầm ào cứ nối đuôi nhau chạy mãi vào bờ tạo nên những tiếng kêu thình thịch kèm theo những cột nước trắng xóa nhô lên khỏi mặt biển rồi chìm ngấm dưới cầu tàu 914. Xa xa, nghĩa trang Hàng Dương vẫn thâm u, tĩnh lặng. Những hàng mộ trắng thẳng tắp lặng im dưới những hàng cây cao to sừng sững như những nhân chứng lịch sử trên hòn đảo đầy oan nghiệt và lắm chuyện liêu trai, huyền thoại này. Những bó nhang leo lét bỗng cháy bùng lên trong đêm lạnh như xua tan cái không khí nặng nề, trầm uất. Gió nổi lên. Lá rơi xào xạc. Ánh trăng rằm lúc tỏ, lúc mờ càng làm khoảng không thăm thẳm sâu vời vợi kia trở nên huyền bí lạ lùng.


- Sao con thấy rợn người quá nội ơi! Ở đây chắc có ma nhiều lắm. Tiếng Liên nói đứt quãng tiếng nghe được, tiếng không.


- Làm gì có ma. Nếu có chắc là vong linh của cô Sáu và mấy người Cách mạng bị giết chết trên cái đảo địa ngục trần gian này. Tiếng ông Ba Hà trả lời gọn lỏn pha lẫn chút trầm buồn.


- Cô Sáu nào? Mà sao lại chết ở đây?


- Bây còn nhỏ nên chưa biết đó thôi. Cô Sáu là cô Võ Thị Sáu, quê miệt Đất Đỏ, Bà Rịa, nếu còn sống tới giờ bây phải kêu tới bằng bà lận. Thôi kêu bằng cô cho “cổ” trẻ hoài.


Minh họa: Trần Thắng


- Ạ. Con có nghe nói về cô Sáu rồi. Cổ còn nhỏ nhưng gan dạ lắm, đánh giặc thì ngon lành, nghe đâu cổ chết lúc còn rất trẻ.


- Chuyện cổ hy sinh cho cách mạng thì ai cũng biết, báo chí la rần rần, người ta viết truyện, dựng phim, viết vọng cổ, cải lương, bài hát về cổ rất nhiều, rồi đặt tên trường, tên đường từ Bắc chí Nam, nhưng có nhiều chuyện mà hổng phải ai cũng biết đâu nghe.


- Chuyện gì bí mật quá vậy nội? Liên thúc giục.


- Từ từ nội kể. Câu chuyện này đã theo nội trên năm mươi năm qua, lúc nội còn làm tỉnh trưởng cho chế độ Sài Gòn. Chuyện lén làm bia mộ cho cô Sáu, may mà trót lọt nếu đổ bể, tao và bà nội bây chắc cũng nằm đây cạnh cô Sáu rồi.


Ký ức mấy mươi năm trước kéo về trong đôi mắt già nua của người sỹ quan chế độ cũ. Ông đăm đăm nhìn ra phía biển, nhìn thật sâu vào khoảng không gian to rộng đang bao trùm lên nghĩa trang Hàng Dương, cầu tàu 914, nơi đã vùi chôn biết bao sinh mạng người Cộng sản, sống vì Đảng, chết vì dân. Lắm lúc ông không tự lý giải được, sức mạnh nào đã in sâu vào trái tim, khối óc của họ mà không một đòn tra tấn dã man nào làm lung lay ý chí và nghị lực rất phi thường tiềm ẩn trong họ. Trước cái chết, họ vẫn ung dung tự tại, nói cho đúng là họ rất tự hào khi được hy sinh cho độc lập tự do.


Ngày ra đảo, ông và vợ mình đã nghe kể rất nhiều về những người chiến sỹ kiên cường ấy, trong đó câu chuyện về cô Sáu trước lúc hy sinh vẫn ca hát yêu đời, từ chối lời rửa tội của linh mục làm ông ray rứt mãi. Không biết hư thực ra sao chứ lính đảo rất sợ vong hồn cô Sáu sau cái vụ một thằng lính nổi điên lấy búa tạ đập vỡ tấm bia mộ cô Sáu. Đêm đó bỗng dưng sấm sét đùng đùng, trời nổi cơn giông bão tối trời tối đất. Thằng lính đó hổng biết ông ứng bà hành sao đó tự nhiên đội áo mưa đi ra phía nghĩa trang rồi bị sét đánh chết tím tái và cháy xém như cục than ngay dưới chân phần mộ cô Sáu. Từ đó không ai dám bén mảng tới chọc phá mộ phần cô Sáu nữa. Tuy vậy tấm bia hư hỏng rạn nứt kia không ai tới tu sửa cho đàng hoàng.


Nghe đồn ban đêm dân trên đảo đều thấy rõ bóng dáng một người con gái trẻ mặc áo trắng quần đen bay lơ lửng từ nghĩa địa Hàng Dương vào các xà lim trại giam rồi bay về biển. Hàng ngày trên ngôi mộ linh thiêng ấy luôn có nhiều hoa tươi trên đảo nhưng cũng không ai biết ai đã mang tới, và mang tới khi nào. Còn một câu chuyện bí ẩn khác mà Ba Hà nghe đồn thổi khá nhiều là việc trong các xà lim trên đảo, các tù chính trị đang giấu giếm một bộ đồ bà ba còn mới của cô Sáu để làm kỷ niệm tìm cơ hội chuyển vô đất liền cho những người cách mạng. Ra sức lục soát tra hỏi nhiều ngày đêm nhưng rồi đâu vẫn hoàn đấy. Ông hiểu, bộ đồ đơn sơ của người nữ cộng sản trẻ ấy đã trở thành báu vật thiêng liêng của các tù nhân Cộng sản trên Côn Đảo này.


Lần đó, chia tay vợ tay ở cầu tàu, Ba Hà nói rất nhỏ vào tai vợ:


- Tháng sau ra đảo thăm tôi, bà đi đặt một tấm bia đá quý khắc tên cô Võ Thị Sáu, bao nhiêu tiền cũng được. Rồi bà lừa thế đem bằng tàu ra đây cho tôi.


- Tiền thì không đáng lo, chỉ ngán tụi lính nó phát hiện thì tôi với ông “chầu trời”. Tôi lo quá trời.


- Đừng nói bậy hổng hên. Tôi theo quốc gia nhưng tôi nể phục cô Sáu này quá trời, chắc cổ linh thiêng dìa phù hộ cho mình đem tấm bia ra đảo an toàn, thấy cái bia cũ hư ráo trơn, tôi xót xa quá chịu hổng nỗi bà ơi!.


Cái ngày quan trọng ấy cũng đến. Bà Ba Hà bọc kín tấm bia mộ bằng đá quý được gói cẩn thận bằng hàng chục lớp giấy nhựt trình và vải xoa, bên ngoài cột chằng chịt bằng dây dù, dây ni lông và mấy lớp băng keo. Trời tháng bảy mưa dầm dề mà mồ hôi của bà rịn ướt mặt mày. Lúc người phu xe vác tấm bia xuống tàu ra Côn Đảo, tim bà như muốn đứng lại khi nghe giọng một người lính an ninh bến tàu quát lớn:


- Thằng kia. Đứng lại. Vác gì trên vai mà lu bu, lọng cọng quá vậy mậy? Bộ đồ tiếp tế cho mấy thằng tù Việt cộng ngoài đảo hả? Bỏ xuống mở ra cho tao kiểm soát rồi mới đi.


- Dạ, chú thông cảm. Đồ này hổng phải của tôi. Tôi vác xuống cho bà tỉnh trưởng. Bả xuống trước dưới tàu kia kìa. Có gì chú hỏi bả, chớ tôi có biết gì đâu.


Liếc mắt xuống thấy bà Ba Hà bận áo dài, khăn the, guốc mộc đang đọc báo dưới tàu. Tên lính bước tới hỏi khẽ:


- Thưa bà tỉnh trưởng, thằng kia nó nói vác đồ cho bà xuống tàu ra đảo, có thật vậy không? Mà đồ gì coi bộ nặng nề quá vậy, thưa bà?


Dù tim bà đập loạn xạ vì hồi hộp, trong thâm tâm bà cứ khấn nguyện vong linh cô Sáu về đây giúp bà vượt qua khó khăn nguy cấp này. Bỗng nhiên bà thấy tự tin hơn, bình tĩnh hơn bao giờ hết.


- Ờ. Đồ của tôi đó. Mấy tấm tranh bằng đá đó mà. Ổng kêu tôi đem ra cho ổng treo ở phòng mần việc. Chú cần để tôi mở ra cho chú kiểm soát. Bà mạnh giọng nửa răn đe, nửa thách thức.


- Dạ khỏi. Hỏi vậy thôi chớ đồ của tỉnh trưởng, tụi em đâu dám.


Khi tên lính bước lên khỏi bong tàu cũng là lúc tấm bia đá được chất xuống chiếc giường “thượng khách”, bà Ba buông người xuống giường thở hào hển, tay chân bà run lên lập cập, lạnh ngắt, xanh rờn. Tàu rời bến. Những con sóng dữ bắt đầu kéo đến. Trời tối om om. Chiếc tàu lắc lư chạy hết công suất để kịp vào bờ trước khi cơn bão tràn về. Gió thổi phần phật. Những người trên tàu bắt đầu lo lắng. Người niệm Phật. Người khóc than lo sợ trước sóng gió dâng đầy. Bà Ba Hà ôm chặt tấm bia khấn nguyện liên hồi:


- Cô Sáu sống linh thác thiêng phù hộ cho tai qua nạn khỏi, sóng gió tan đi, bình yên trở lại để tôi còn đem tấm bia này dựng lại trước mộ cho cô. Mô Phật.


Trong mơ hồ giông bão, bà thấy hình ảnh cô Sáu đang lúc ẩn, lúc hiện cười thật tươi trên biển, có khi cô lại cầm bó hoa dừa đất lại tiến đến gần cửa sổ nơi bà đang nằm như trấn an, như chở che cho bà qua cơn sóng gió để bà hoàn thành tâm nguyện của mình.


Sóng Yên. Gió dừng. Biển lặng. Tàu cặp bến. Từ đàng xa bà đã nhìn thấy ông Ba Hà đứng tại cầu Tàu với tâm trạng bồn chồn lo lắng. Chiếc xe “rép” nhà binh do chính ông cầm lái đang đang nổ máy đợi chờ. Hai người lính khệ nệ xuống bong tàu vác “quà” của tỉnh trưởng đi qua hàng chục đôi mắt kiểm soát của lính đảo. Phía sau, bà Ba Hà bước khập khiễng lên cầu tàu. Đôi mắt bà đăm đăm lo lắng. Mồ hôi ra rịn ướt tấm lưng bà dù trời đang rất lạnh. Không ai hiểu vì sao như vậy? chỉ trừ một người - ông Ba Hà.


Đồng hồ trên tay ông Ba Hà đã chỉ đúng 1 giờ đêm. Đảo vắng tanh. Nghĩa địa Hàng Dương càng vắng tanh gấp bội. Chiếc xe “rép” chạy thật chậm như cố thu nhỏ âm thanh của động cơ đang phát ra. Xe dừng lại. Hai bóng người hì hục chuyển tấm bia mộ xuống xe rồi nhanh chóng khiêng tới mộ phần cô Sáu trong đêm ba mươi tối đen như mực.


- Tối quá. Làm sao thấy đường thay bia được hả ông?


- Khó mấy cũng phải làm xong đêm nay. Tối vậy mấy đứa giám thị và lính canh mới không phát hiện. Ráng lên. Thế nào cô Sáu cũng dìa đây tiếp mình bà ơi! Thôi tôi ra phía ngoài coi chừng tụi nó. Bà ráng đào bia cũ lên rồi thay bia mới cho lẹ. Nghe hôn?


Khi ông Ba Hà vừa khuất dạng thì bà bắt đầu công việc của mình. Đào. Bưới. Móc đất. Cái điệp khúc cứ đều đặn lặp đi, lặp lại. Đôi bàn tay của một người phụ nữ quyền quý ăn ngon mặc đẹp đang toe toét máu tươi. Mặc. Bà vẫn hì hục đào trong đêm vắng. Cuối cùng thì việc cũng xong. Thắp vội vàng mấy nén nhang trầm mang từ đất liền ra cùng với mấy miếng thịt nạc, hột vịt, mớ muối bọt, bà khấn :


- Tôi đã làm xong bổn phận với cô Sáu. Có linh thiêng thì cô cho sớm hòa bình, đừng có chiến tranh, bắt bớ, giết chóc, tù đày, khổ lắm. Ngày đó tôi với ổng sẽ ăn chay trường để chuộc lại những lỗi lầm gây ra.


Nén nhang trầm bỗng cháy lên ngùn ngụt giữa đêm khuya. Có lẽ cô Sáu đang về đây chứng giám. Bà nghĩ như vậy rồi nghe lòng ấm lại thanh thản đến lạ lùng. Bà bước vội ra phía ngoài nghĩa địa. Ông Ba Hà đang chờ rồi cho xe chạy rất nhanh trong đêm vắng.


Hôm sau, cả đảo xôn xao bàn tán thêu dệt nhiều chuyện hoang đường về sự xuất hiện của tấm bia đá quý trên mộ phần cô Sáu. Người nói ma quỷ về làm. Người nói cô Sáu bay về đất liền đem bia ra dựng lại. Mỗi người một cách suy đoán. Chỉ có hai người lặng im trầm ngâm suy nghĩ. Giặc nổi điên định phá nát tấm bia lạ thường kia nhưng nghĩ đến cái cảnh người lính bị sét đánh chết chẳng toàn thây do xúc phạm đến mộ phần cô Sáu nên chúng ngó lơ.


- Nội kể chuyện đó làm con sởn tóc gáy quá trời, cô Sáu à gọi bà Sáu mới phải, linh quá. Rồi sau đó thế nào hả nội?


- Để ông nhớ tới đâu thì kể tới đó.


Sau chuyện làm bia đó, mấy năm sau, ông Ba Hà xin chuyển công tác về đất liền rồi xin giải ngũ. Ông ăn chay trường như tâm nguyện của vợ mình và câu chuyện làm bia cho cô Sáu được giấu kín cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Sau mấy mười năm nước nhà thống nhất, ông Ba Hà mới có dịp trở lại Côn Đảo khi tuổi đã xấp xỉ chín mươi. Nhờ trời ông vẫn còn minh mẫn, nhớ rõ mồn một những tháng ngày sống trên cái đảo giết người này, và nhớ nhất là câu chuyện về cô Sáu anh hùng. Và từ đây câu chuyện huyền thoại làm bia đá quý cho cô Sáu mới được mọi người biết đến trong sự ngỡ ngàng, thán phục.


- Tiếc quá. Bà nội bây mất rồi nên không có dịp về lại Côn Đảo thắp nhang cho cô Sáu, đảo xưa giờ đẹp đẽ, khang trang, khác xưa rất nhiều. Giọng ông thật buồn, đầy vẻ nuối tiếc.


Trên nghĩa trang Hàng Dương hôm nay hoa thắm đỏ rực một góc trời. Trước tấm mộ bia thật trang trọng được cẩn bằng đá quý mang dòng chữ Võ Thị Sáu, có một người con gái trẻ dìu một ông già râu tóc bạc phơ cúi đầu lặng lẽ trước nấm mồ khói hương nghi ngút. Xa xa núi đồi trùng trùng điệp điệp đang ẩn chứa những câu chuyện kể thật ly kỳ hấp dẫn về những con người bất tử đã nằm xuống trên Côn Đảo anh hùng. Xa hơn nữa trong gió, trong mây, trong sóng biển rạt rào phảng phất dáng hình một người con gái đang ẩn hiện mơ hồ trong lời hát du dương “…Mùa hoa Lê Ki Ma nở. Ở quê ta miền Đất Đỏ…”, “…Người thiếu nữ ấy như mùa xuân, chị đã dâng trọn cuộc đời. Để chiến đấu với bao niềm tin. Dù chết vẫn không lùi bước…”.



Tô Phục Hưng

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN