Xuất khẩu thủy sản năm 2018 ước đạt khoảng 9 tỷ USD, tăng mạnh tới 8,4% so với năm 2017. Trong năm 2019, ngành thủy sản tiếp tục phấn đấu mục tiêu 10 tỷ USD xuất khẩu. Phóng viên Tin tức đã có cuộc trao đổi với ông Trần Đình Luân, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản về vấn đề này.
Để giữ vững và tăng cường xuất khẩu thủy sản trong năm 2019 đạt mục tiêu 10 tỷ USD, ngành thủy sản sẽ làm gì thưa ông?
Muốn giữ vững và gia tăng giá trị xuất khẩu, ngành thủy sản cần liên kết chặt chẽ hơn nữa. Trong kế hoạch tái cơ cấu ngành thủy sản, việc tổ chức lại sản xuất, liên kết là một trong những giải pháp đã được đề ra.
Thời gian vừa qua, rất nhiều chuỗi đã được hình thành, ví dụ chuỗi sản xuất tôm ở 3 tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. Chuỗi sản xuất này thể hiện sự liên kết từ vật tư đầu vào đến nhà máy chế biến và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Chuỗi sản xuất cá tra đã hình thành liên kết từ vùng sản xuất giống, đến vùng nuôi và đến nhà máy chế biến… Những kết quả đó thể hiện chuỗi liên kết đã từng bước phát huy hiệu quả.
Hiệu quả rõ nét nhất được thể hiện ở các giá trị xuất khẩu như: cá tra đạt 2,26 tỷ USD, tăng 26,4%; nhóm hải sản gồm cá ngừ 675 triệu USD, tăng gần 14%; nhuyễn thể 785 triệu USD, tăng 9,1%; giáp xác 145 triệu USD, tăng 23%..
Hiện nay số lượng chuỗi ngày một tăng lên, không chỉ ở sản xuất mà cả lĩnh vực khai thác thủy sản. Các tổ đội sản xuất trên biển đã hình thành, tàu dịch vụ hậu cần vận chuyển thủy sản được tăng lên, đã tổ chức để kết nối từ tàu khai thác đến tàu hậu cần dịch vụ đến nhà máy chế biến, đảm bảo giảm được tổn thất và nâng cao chất lượng. Điều này cũng đáp ứng yêu cầu hiện nay là không được vi phạm khai thác bất hợp pháp và truy xuất hồ sơ nguồn gốc khai thác; thủy sản đánh bắt được phải minh bạch, rõ ràng, công khai.
Giá trị gia tăng của các sản phẩm nuôi trồng thể hiện ở việc nguyên liệu khi về đến nhà máy chế biến đảm bảo chất lượng, đảm bảo số lượng và quy cách đề ra. Đối với khai thác hải sản trên biển, chúng ta cũng thấy mặt hàng cá ngừ sản lượng khai thác giảm nhưng giá trị xuất khẩu lại tăng đến 10%. Như vậy, thông qua các chuỗi liên kết, chất lượng nguyên liệu đưa đến nhà máy, đưa đến khu vực chế biến đã được nâng lên rõ rệt. Việc đó góp phần lớn trong gia tăng giá trị kinh tế của các sản phẩm thủy sản.
Như vậy, phát triển chuỗi trong ngành thủy sản là tất yếu, nhưng ngành thủy sản cần thêm yếu tố gì để đảm bảo việc phát triển bền vững hơn trong thời gian tới?
Khó khăn trước mắt là chúng ta cần dồn lực để gõ bỏ “thẻ vàng” của EU. Hiện nay, Tổng cục Thủy sản ngoài hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật (EU đã cơ bản đồng thuận chúng ta về các quy định) thì còn nhiều khó khăn trong việc triển khai trên thực tế.
Chúng tôi xác định đây là việc làm thường xuyên, liên tục. Tới đây chúng tôi sẽ tiếp tục rà soát với các địa phương để triển khai các nội dung của Luật Thủy sản, trong đó đặc biệt là công tác xác nhận, chứng nhận, công tác điều tra nguồn lợi, công tác quy hoạch số lượng tàu thuyền, quy hoạch về khai thác phù hợp với quy định của EC.
Về hoạt động chế biến, đối với các nhà máy chế biến đều đạt những tiêu chuẩn quy chuẩn mà các nước nhập khẩu khó tính như Mỹ, Nhật Bản, EU đã đánh giá và công nhận. Tuy nhiên, với mục tiêu trong tái cơ cấu của chúng ta là phải chế biến sâu và tăng cường chế biến các sản phẩm giá trị gia tăng, đặc biệt là không để nguyên liệu dư thừa.
Để thực hiện mục tiêu đó, trong thời gian tới chúng tôi thấy cần đầu tư khoa học công nghệ, tận dụng một cách tốt nhất nguồn nguyên liệu chúng ta sẵn có, biến những sản phẩm có giá trị gia tăng có thể phục vụ cho con người, phục vụ cho ngành y tế.
Ngoài ra, chúng tôi cũng mong muốn phát triển thị trường, đối với mỗi sản phẩm mới chúng ta cần sự hỗ trợ của toàn hệ thống, đặc biệt là các cơ quan của Việt Nam ở nước ngoài, tìm hiểu, điều tra và hướng được ngành thủy sản tiếp cận thị trường nhanh nhất, tốt nhất và hiệu quả nhất.
Xin cảm ơn ông!