Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình về dự án Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị nêu rõ rằng phải hoàn thiện pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Việc sửa đổi Luật Giao dịch điện tử năm 2005 là nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập.
Nhìn lại Luật Giao dịch điện tử năm 2005
Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực thi hành ngày 1/3/2006. Luật có 8 chương, 54 điều.
Về phạm vi điều chỉnh, Luật này quy định về giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan nhà nước; trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực khác do pháp luật quy định.
Các quy định của Luật này không áp dụng đối với việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và các bất động sản khác, văn bản về thừa kế, giấy đăng ký kết hôn, quyết định ly hôn, giấy khai sinh, giấy khai tử, hối phiếu và các giấy tờ có giá khác.
Về đối tượng, Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân lựa chọn giao dịch bằng phương tiện điện tử.
Khi có sự khác nhau giữa quy định của Luật Giao dịch điện tử với quy định của luật khác về cùng một vấn đề liên quan đến giao dịch điện tử thì áp dụng quy định của Luật Giao dịch điện tử.
Trong 17 năm được áp dụng, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 đã đóng vai trò quan trọng về việc tạo cơ sở pháp lý để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy giao dịch điện tử, góp phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế-xã hội, đưa ứng dụng khoa học và công nghệ vào cải cách hành chính.
Căn cứ Luật Giao dịch điện tử, Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành nhiều nghị định, thông tư quy định, hướng dẫn thực hiện đối với các hoạt động giao dịch điện tử trong các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, thương mại điện tử, ngân hàng cũng như các quy định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số.
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 đã ghi nhận giá trị pháp lý của giao dịch điện tử bao gồm: thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử. Đây là cơ sở pháp lý để triển khai các giao dịch hành chính, dân sự trên môi trường điện tử và được xã hội công nhận. Từ đó các ngành, lĩnh vực xây dựng được những quy định hướng dẫn, tạo thuận lợi cho các giao dịch dân sự, thương mại và giảm thiểu thủ tục hồ sơ hành chính.
Về khía cạnh dân sự, thương mại, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 kế thừa phần lớn quy định trong Luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL). Do đó, các quy định trong Luật đều tương thích với pháp luật, với thông lệ quốc tế đồng thời đã thúc đẩy sự hợp tác trong thương mại, tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện của nước ta.
Những yếu tố nêu trên là tiền đề nâng cao hiệu quả hoạt động hành chính, thương mại, đóng góp quan trọng vào việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, đã mang lại kết quả phát triển và ứng dụng giao dịch điện tử trong một số lĩnh vực.
Cụ thể, thị trường thương mại điện tử của Việt Nam đã tăng trưởng từ con số gần bằng 0 trong năm 2006 lên ước tính 12 tỉ USD vào năm 2020. Thói quen mua hàng của người tiêu dùng nước ta cũng có những thay đổi tích cực.
Trong lĩnh vực tài chính, việc triển khai hóa đơn điện tử giúp rút ngắn thủ tục lập hóa đơn cho doanh nghiệp, từ 5 thủ tục xuống còn 1 thủ tục, giúp doanh nghiệp rút ngắn 99% thời gian thanh toán, quản lý hóa đơn.
Ngành hải quan triển khai ứng dụng giao dịch điện tử rất sớm - năm 2005. Trước đây thủ tục hải quan đòi hỏi hàng giờ để thực hiện thì nay chỉ mất vài giây để hoàn thành việc phân luồng. Hệ thống thông quan tự động (VNACCS) và Hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin nghiệp vụ (VCIS) được áp dụng ở mức rất cao tại 100% các đơn vị hải quan trên phạm vi toàn quốc với hơn 99% doanh nghiệp tham gia, xử lý hơn 99,6% tờ khai; thời gian tiếp nhận, xử lý, trả kết quả trong thời gian chỉ từ 1-3 giây; tiết kiệm được khoảng 5,7 triệu USD chi phí chuyển phát nhanh cho doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực bảo hiểm thì thủ tục hành chính ngày càng được cải tiến, rút gọn. Thời gian thực hiện thủ tục hành chính trong giao dịch với các doanh nghiệp, cá nhân tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội được rút ngắn từ 335 giờ/năm xuống còn 147 giờ/năm. Số thời gian đi lại, chờ đợi tiết kiệm được lên tới hơn 3 triệu giờ/năm.
Lộ rõ những lỗ hổng lớn
Sau 17 năm được áp dụng, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 đã bộc lộ một số bất cập, nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế phát triển, không đáp ứng được nhu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như công cuộc chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số của Việt Nam trong giai đoạn tới.
Có nhiều nguyên do để coi Luật Giao dịch điện tử năm 2005 chưa tạo ra đầy đủ nền tảng để phát triển “cuộc sống số” ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 được xây dựng theo hình thức luật khung, nhiều quy định còn mang tính nguyên tắc, chung chung. Trong quá trình thực hiện đã xuất hiện sự thiếu thống nhất, không đồng bộ, có những văn bản quy định chồng chéo, mâu thuẫn. Một số quy định của Luật chưa phù hợp với thực tiễn, do vậy văn bản hướng dẫn buộc phải sửa đổi, không còn tương thích với nội dung của Luật.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, phạm vi điều chỉnh Luật Giao dịch điện tử năm 2005 chưa phù hợp với thực tiễn ứng dụng và phát triển giao dịch điện tử hiện nay. Luật loại trừ giao dịch điện tử đối với một số hoạt động cụ thể trong các lĩnh vực tư pháp, đất đai, xây dựng, tài chính. Việc loại trừ này có thể gây khó khăn cho việc triển khai dịch vụ công trực tuyến cũng như triển khai các dịch vụ giao dịch điện tử trong các lĩnh vực thuộc phạm vi kể trên.
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thiếu quy định về giá trị pháp lý của giao dịch điện tử: thông điệp dữ liệu an toàn, chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử, định danh và xác thực điện tử, dịch vụ tin cậy và nhà cung cấp dịch vụ tin cậy. Thực tế cho thấy, giao dịch điện tử trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, hải quan luôn tồn tại hồ sơ điện tử và yêu cầu về giá trị pháp lý, xác thực và bảo đảm an toàn cho hồ sơ điện tử. Mặt khác, các quy định về giá trị pháp lý, chứng cứ của thông điệp dữ liệu còn chưa rõ ràng.
Để thực thi quy định về giá trị pháp lý, chứng cứ của của thông điệp dữ liệu, Luật cần quy định rõ các nội dung liên quan đến đảm bảo tính toàn vẹn của của thông điệp dữ liệu và đảm bảo tính chống chối bỏ của của thông điệp dữ liệu (quy định về các yếu tố: thời gian, địa điểm gửi, nhận thông điệp dữ liệu, thời điểm ký thông điệp, lưu trữ, các hình thức thể hiện của thông điệp dữ liệu… còn thiếu hoặc có quy định nhưng chưa phù hợp với thực tiễn). Ngoài ra, Luật chưa có quy định làm rõ giá trị pháp lý và chứng cứ của thông điệp dữ liệu khi được lưu trữ và của thông điệp dữ liệu đã được chuyển đổi với bản giấy.
Các quy định về giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, chứng thực chữ ký điện tử chưa phù hợp với thực tiễn và chưa có quy định về các cấp độ chữ ký điện tử, giá trị pháp lý theo từng cấp độ, các trường hợp sử dụng để chữ ký điện tử có tính ứng dụng cao, phù hợp với nhu cầu đa dạng của các giao dịch điện tử.
Các quy định về giao kết và hợp đồng điện tử trong Luật Giao dịch điện tử năm 2005 còn chung chung, đặc biệt là các quy định mang tính chất đặc thù trong hoạt động giao kết như: quy trình, thủ tục giao kết hợp đồng điện tử, quy định về giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử, điều kiện có hiệu lực, hợp đồng có hiệu lực và hợp đồng vô hiệu khi tiến hành dưới hình thức điện tử. Ngoài ra, các vấn đề phát sinh trong giao kết hợp đồng điện tử trong qua trình triển khai như: giá trị pháp lý của một đề nghị giao kết hợp đồng, giá trị pháp lý của hợp đồng thông minh, giao dịch điện tử xuyên biên giới, các phương thức thanh toán… còn chưa có quy định để giải quyết.
Các quy định của Luật Giao dịch điện tử năm 2005 chỉ ở mức nguyên tắc khung, không đủ cụ thể để áp dụng trong thực tế. Giao dịch điện tử của các cơ quan nhà nước đã phát triển mạnh mẽ (dịch vụ công trực tuyến, gửi - nhận văn bản điện tử, trao đổi dữ liệu…) nhưng chủ yếu được điều chỉnh bởi các văn bản dưới luật và cần phải được rà soát, bổ sung, chỉnh sửa cho phù hợp với thực tế phát triển.
Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 và Luật An ninh mạng năm 2018 có nhiều quy định cụ thể về an toàn thông tin mạng và an ninh mạng cho các giao dịch điện tử, dẫn đến của các quy định về an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong Luật Giao dịch điện tử năm 2005 không còn giá trị áp dụng thực tế.
Quy định các vấn đề liên quan trong giải quyết tranh chấp của giao dịch điện tử trong Luật Giao dịch điện tử năm 2005 còn thiếu hoặc chưa có các quy định dẫn chiếu cụ thể đến các luật chuyên ngành về phương thức giải quyết tranh chấp đặc thù, liên quan đến việc ký kết và thực hiện giao dịch điện tử….
Bài 2: Lấp đầy khoảng trống pháp lý