Sau 50 năm hợp tác, ông thấy sự phát triển của mối quan hệ Nhật Bản - Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, diễn ra như thế nào?
Hai quốc gia đã thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1973. Các doanh nghiệp Nhật Bản bắt đầu đầu tư vào Việt Nam khoảng năm 1995, đây là đợt bùng nổ đầu tiên về đầu tư. Năm 2006, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư và tạo ra làn sóng đầu tư từ Nhật Bản vào Việt Nam, đây là làn sóng đầu tư thứ hai. Sau sự kiện Lehman Brothers và cuộc khủng hoảng tài chính, đầu tư vào Việt Nam tăng mạnh và đa dạng hóa từ khoảng năm 2012 và sau đó, tạo nên làn sóng đầu tư thứ ba.
Hiện nay, Nhật Bản đứng thứ ba về giá trị đầu tư, thứ hai về số dự án và đứng đầu về thực hiện đầu tư tại Việt Nam.
Hầu hết khoản đầu tư của Nhật Bản tập trung vào lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu trong giai đoạn đầu của mối quan hệ kinh tế giữa hai nước. Sau đó, nhiều công ty phi sản xuất bắt đầu kinh doanh trong lĩnh vực bán lẻ, thương mại, khách sạn, dịch vụ chuyên nghiệp và ngành công nghệ thông tin.
Mặt khác, sự tham gia của các công ty công nghệ thông tin Việt Nam vào thị trường Nhật Bản cho thấy sự tăng trưởng đáng kể trong hiệu suất kinh doanh và năng lực của doanh nghiệp Việt Nam. FPT, CMC, Rikkei và các công ty công nghệ thông tin khác đã mở các cửa hàng tại Nhật Bản trong 10 năm qua, tận dụng tình trạng thiếu kỹ sư tại Nhật Bản.
Với sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam, các công ty Nhật Bản bắt đầu nhắm đến thị trường nội địa của Việt Nam. Thương mại hàng hóa giữa hai nước đã tăng gấp đôi trong 10 năm. Đối với Nhật Bản, Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 9 trên toàn cầu và lớn thứ 2 trong khu vực ASEAN. Đối với Việt Nam, Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ 4.
Việt Nam là một quốc gia không thể thiếu đối với Nhật Bản để tích hợp mạng lưới chuỗi cung ứng của mình, nơi Nhật Bản xuất khẩu linh kiện và vật liệu vào Việt Nam, sau đó lắp ráp chúng và xuất khẩu sản xuất cuối cùng trở lại Nhật Bản. Chúng ta đang thấy ngày càng nhiều công ty Nhật Bản chuyển giao quá trình gia tăng giá trị vào Việt Nam.
Với nhiều doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư vào Việt Nam, ông đánh giá thế nào về hiệu quả của các khoản đầu tư này? Theo ông, đâu sẽ là lĩnh vực đầu tư tiềm năng trong tương lai mà các công ty Nhật Bản hướng tới?
Theo khảo sát của JETRO được công bố vào năm ngoái, 60% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam ghi nhận có lãi, cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ trong giai đoạn đại dịch COVID-19, trong khi 60% công ty có kế hoạch mở rộng hoạt động tại đây, mức cao nhất tại ASEAN.
Kết quả cuộc khảo sát cũng chỉ ra rằng Việt Nam là điểm đến FDI thuận lợi thứ hai (sau Hoa Kỳ), đối với các công ty Nhật Bản. Đây là năm thứ 6 liên tiếp Việt Nam đứng thứ hai, một kết quả rất ấn tượng.
Đối với các khoản đầu tư trong tương lai, chúng tôi dự định chuyển vốn từ các vùng đô thị ra ngoại ô. Chi phí cao hơn ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng khiến các công ty Nhật Bản cố gắng đầu tư vào khu vực nông thôn hoặc ngoại thành.
Cũng vì chi phí tăng nên hoạt động nội địa hóa sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn trong vấn đề nhân sự, lãnh đạo và mua sắm. Và điều này đang diễn ra. Các doanh nghiệp Nhật Bản đang cố gắng tìm kiếm đối tác Việt Nam để mua nhiều hơn. Hơn nữa, chúng tôi sẽ đầu tư vào việc tăng thêm giá trị trong sản xuất để chống lại sự gia tăng chi phí, với các công ty Nhật Bản đang hướng tới việc mở rộng ở lĩnh vực thượng nguồn và hạ nguồn.
Các hoạt động trong lĩnh vực thượng nguồn gồm mua sắm nguyên liệu và sản xuất, trong khi khu vực hạ nguồn là tiếp thị, giao hàng hoặc các dịch vụ khác. Nhật Bản đang nỗ lực đưa chuỗi cung ứng trở nên tích hợp hơn. Chúng tôi cũng tập trung vào chuyển đổi số vì công nghệ thông tin và kỹ thuật số là một trong những thế mạnh của Việt Nam.
Ngoài ra, đầu tư vào khởi nghiệp đang là xu hướng mới của các nhà đầu tư Nhật Bản. Nhiều doanh nghiệp Nhật Bản quan tâm đến startup Việt, trong đó có nhiều công ty giỏi ở các lĩnh vực thương mại điện tử, chăm sóc sức khỏe, trò chơi và logistics.
Hệ sinh thái hỗ trợ của Việt Nam vẫn kém phát triển nhưng lại thu hút được yêu cầu đầu tư và hợp tác từ các công ty Nhật Bản. Điều này giúp giải quyết các vấn đề xã hội về năng lượng, giao thông, y tế, giáo dục và tài chính cũng là một không gian đầu tư quan trọng. Có nhiều vấn đề xã hội mà Việt Nam cần giải quyết ngay bây giờ mà Nhật Bản cũng đã trải qua những vấn đề như vậy, gồm thiếu năng lượng và ùn tắc giao thông, vì vậy chúng tôi có thể chia sẻ kinh nghiệm của mình với Chính phủ Việt Nam.
Cuối cùng, thị trường tiêu dùng cũng là mối quan tâm của các nhà đầu tư Nhật Bản. Để đáp ứng và phục vụ tầng lớp trung lưu và người giàu ngày càng lớn, các công ty Nhật Bản đã đầu tư nhiều hơn để nắm bắt cơ hội trên thị trường. Trong 5 năm qua, tại Việt Nam, các hộ gia đình đã gia tăng mua máy điều hòa, máy giặt và tủ lạnh. Họ tiêu tiền vào thực phẩm, giáo dục, du lịch, chăm sóc sức khỏe và giải trí. Vì vậy, thực phẩm Nhật Bản, đồ gia dụng, đồ trẻ em, sản phẩm chăm sóc sắc đẹp, thực phẩm chế biến sẵn sẽ có nhiều cơ hội thâm nhập thị trường hơn.
Chính phủ hai nước đã nhất trí tăng cường hợp tác hướng tới tăng trưởng xanh, ông có thể nói rõ hơn những chủ trương, kế hoạch hợp tác giữa doanh nghiệp hai bên được không?
Nhật Bản có thể giúp Việt Nam phát triển vì các doanh nghiệp của chúng tôi có những sản phẩm và dịch vụ tuyệt vời về tiết kiệm năng lượng như đèn LED, quản lý tòa nhà, điều hòa không khí, điện khí và nông nghiệp công nghệ cao. Hay các công ty trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, gồm Marubeni trong xử lý nước thải, Toyota Tsusho và Hukunaga Engineering trong lĩnh vực tái chế và Nagase trong hệ thống báo cáo phát thải khí nhà kính.
Việt Nam cũng cần nhiều năng lượng tái tạo hơn như năng lượng sinh khối, nước, năng lượng mặt trời và gió. Nhiều doanh nghiệp Nhật Bản, trong đó có EREX, JFE Engineering, Toyota Tsusho, đang hoạt động trong lĩnh vực này.
Ngoài ra, JICA và các cơ quan Chính phủ khác của Nhật Bản đang hỗ trợ Việt Nam xây dựng khuôn khổ pháp lý nhằm ngăn ngừa ô nhiễm. JETRO là thư ký của dự án trợ cấp Asia DX nhằm hỗ trợ các dự án thử nghiệm chuyển đổi kỹ thuật số, gồm cả các doanh nghiệp xanh. Hàng chục dự án được Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ tài chính. Hiện có khoảng 10 dự án đang được triển khai tại Việt Nam, trong đó một số dự án đang sử dụng kỹ thuật số để giảm ô nhiễm và khí thải từ các phương tiện vận tải hoặc tự động hóa.
Vì vậy, các dự án xanh hơn là một trong những trụ cột quan trọng của Dự án Asia DX. Chúng tôi cũng là thư ký của dự án đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Chúng tôi hỗ trợ tài chính cho một số dự án có sự hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam nhằm tăng cường chuỗi cung ứng. Một số dự án thú vị nhắm tới mục tiêu bảo vệ, hiệu quả và bảo tồn môi trường. Kết nối kinh doanh và triển lãm thương mại về các doanh nghiệp xanh cũng là những hoạt động được chúng tôi thực hiện. Thỉnh thoảng, chúng tôi mở các buổi trưng bày sản phẩm xanh của Nhật Bản tại văn phòng và mời nhiều người mua Việt Nam hoặc các cơ quan chính phủ đến xem sản phẩm.
Trân trọng cảm ơn ông!