Trên đây là chia sẻ của Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, ông Trần Văn Dũng với báo chí về vấn đề khối ngoại bán ròng trên thị trường chứng khoán.
Dù nhà đầu tư nước ngoài có rút vốn ra khỏi Việt Nam, nhưng giá trị rút vốn lũy kế từ đầu năm 2021 đến nay chỉ chiếm 0,8% tổng giá trị danh mục của nhà đầu tư nước ngoài và thấp hơn giá trị bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán. Điều này cho thấy, hoạt động bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài phần nào để tái cơ cấu danh mục, không phải hoàn toàn rút vốn.
Theo Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Trần Văn Dũng, từ đầu năm 2021 đến nay, do tác động của đại dịch COVID-19, tâm lý chung của nhà đầu tư khá thận trọng khi đầu tư trên các thị trường cận biên và mới nổi, trong đó có Việt Nam.
Từ đầu năm đến hết tháng 9/2021, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng 30.196 tỷ đồng (khoảng 1,3 tỷ USD) trên thị trường chứng khoán Việt Nam; trong đó, nhà đầu tư nước ngoài bán ròng 40.309 tỷ đồng cổ phiếu (khoảng 1,7 tỷ USD) và mua ròng 10.113 tỷ đồng trái phiếu (khoảng 0,4 tỷ USD).
Xét về giá trị bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường quốc tế, thị trường chứng khoán Việt Nam cũng theo xu hướng chung nhưng thấp hơn so với các nước trong khu vực.
Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, việc nhà đầu tư nước ngoài bán ròng là do một số yếu tố như: tác động của đại dịch COVID-19, đặc biệt là hiện thực hóa khoản lợi nhuận trong danh mục đầu tư đã thực hiện giải ngân vào năm 2019 và 2020, sau khi thị giá cổ phiếu đã tăng cao để chờ đợi các cơ hội đầu tư mới.
Nhà đầu tư nước ngoài rút ròng trên thị trường cổ phiếu, nhưng có xu hướng mua trái phiếu và giữ lại tiền mặt đề chờ đầu tư tiếp. Số liệu thống kê cũng cho thấy, tỷ trọng tiền mặt trong tổng giá trị danh mục của nhà đầu tư nước ngoài vẫn tương đối ổn định ở mức cao từ đầu năm đến nay.
Có thể thấy, mặc dù nhà đầu tư nước ngoài có rút vốn ra khỏi Việt Nam, nhưng giá trị rút vốn lũy kế từ đầu năm 2021 đến nay chỉ chiếm 0,8% tổng giá trị danh mục của nhà đầu tư nước ngoài và thấp hơn giá trị bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán. Điều này cho thấy, hoạt động bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài phần nào để tái cơ cấu danh mục, không phải hoàn toàn để rút vốn.
Số lượng nhà đầu tư nước ngoài đăng ký cấp mới mã số giao dịch chứng khoán và mở mới tài khoản giao dịch tăng đều qua các tháng. Tổng số lượng nhà đầu tư nước ngoài đăng ký mã số giao dịch chứng khoán trong 9 tháng vừa qua là 3.235 tài khoản, bằng hơn 80% của năm 2020, nâng tổng số tài khoản nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường đạt 38.306 tài khoản. Đây là những chỉ báo cho thấy, nhà đầu tư nước ngoài vẫn tin tưởng vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Trần Văn Dũng cho rằng, môi trường pháp lý, kinh doanh đã và đang được cải thiện đáng kể. Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán có hiệu lực từ năm 2021 đã giúp môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch và hoàn thiện hơn.
Trong lĩnh vực chứng khoán, nhiều quy định mới liên quan đến nâng chuẩn hàng hóa trên thị trường chứng khoán, tăng cường công bố thông tin, nâng cao điều kiện về phát hành, niêm yết chứng khoán, quản trị công ty đã giúp thị trường phát triển bền vững, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư hiệu quả hơn, mở ra nhiều cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp.
Việt Nam là điểm đầu tư an toàn, hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài với các chính sách kinh tế vĩ mô ổn định. Trước khi đại dịch diễn ra, kinh tế Việt Nam tăng trưởng tốt và trước đợt bùng phát đợt dịch lần thứ 4, nhiều tổ chức tài chính quốc tế như: Tổ chức Tiền tệ Quốc tệ (IMF), Ngân hàng Thế giới (World Bank) đều dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2021 có thể đạt từ 6 - 6,5%. Do tác động của đợt bùng phát dịch bệnh thứ 4, kịch bản tăng trưởng này sẽ rất khó đạt được, thậm chí mức tăng trưởng năm nay sẽ thấp hơn nhiều.
Tuy vậy, toàn hệ thống chính trị đã và đang rất quyết tâm chống dịch hiệu quả. Khi kiểm soát sớm đợt dịch này, kinh tế Việt Nam sẽ hồi phục và có tiềm năng tăng trưởng tốt, thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư quốc tế.
Hiện nay, hai tổ chức MSCI và FTSE-Russell đều đang xếp hạng Việt Nam là thị trường cận biên; trong đó, FTSE đang đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi nâng hạng. Các cổ phiếu của Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các chỉ số thị trường cận biên (khoảng 27%) của FTSE. Do còn là thị trường cận biên nên nhiều quỹ đầu tư lớn có uy tin trên thế giới chưa quan tâm đầu tư hoặc đầu tư ở mức rất hạn chế. Nếu được nâng hạng, nguồn vốn từ các quỹ này sẽ vào nhiều hơn, và lúc đó dòng tiền đầu tư từ nước ngoài mới tăng về số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận rằng, việc nâng hạng thị trường cũng giống như nâng định mức tính nhiệm quốc gia, phụ thuộc vào nhiều yếu tố từ tiềm năng phát triển đến các hệ thống chính sách thực thi đồng bộ. Do vậy, để thị trường chứng khoán Việt Nam nâng hạng cần sự nỗ lực và vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhất là từ Chính phủ và các bộ, ngành có liên quan để ổn định kinh tế vĩ mô, xây dựng kịch bản tăng trưởng sau khi đại dịch và phối hợp chính sách để cải thiện môi trường đầu tư.
Cơ quan quản lý ngành chứng khoán sẽ xây dựng, phát triển thị trường chứng khoán với các sản phẩm, dịch vụ phụ trợ tương ứng với các thông lệ ở thị trường chứng khoán mới nổi, tạo ra sự công bằng cho nhà đầu tư nước ngoài khi gia nhập thị trường chứng khoán Việt Nam.
Điều đáng mừng là câu chuyện về phát triển kinh tế tư nhân, thúc đẩy cổ phần hóa và kiên định xây dựng Chính phủ kiến tạo, đảm bảo môi trường đầu tư minh bạch đã được đề cập trong các văn bản cấp Nghị quyết của Đảng, Chính phủ.
Ngành chứng khoán đã và sẽ tiếp tục nỗ lực cho những bước tiến của thị trường. “Chúng tôi mong rằng, vấn đề nâng hạng cần được nhìn rộng hơn câu chuyện của một ngành, mới có thể bước vững đến mốc nâng hạng và quan trọng hơn là bền vững sau nâng hạng để nhận được những giá trị tích cực từ diễn biến này”, ông Dũng cho biết.