Theo Giám đốc IHME Christopher Murray, tại Mỹ, COVID-19 hiện nay chỉ gây ra tỉ lệ tử vong ở mức 0,6% trên tổng số những người nhiễm, giảm tương đối so với tỉ lệ 0,9% ở giai đoạn đầu dịch tấn công nước Mỹ. Theo ông, các số liệu cho thấy, các bác sĩ, chuyên gia y tế đã tìm ra phương pháp chăm sóc, điều trị bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2 hiệu quả hơn, đơn cử như việc sử dụng thuốc chống đông máu và hỗ trợ thở ô-xy.
Trước đó, giới chuyên gia gặp khó khăn trong việc định lượng một thông số thiết yếu liên quan đến COVID-19: Đó là tỉ lệ tử vong mà SARS-CoV-2 gây ra, nói cách khác là tỉ lệ phần trăm người nhiễm mầm bệnh và nhiều khả năng sẽ tử vong. Thách thức còn lớn hơn khi nhiều người nhiễm bệnh nhưng không có biểu hiện và cha bao giờ được định danh là ca nhiễm.
Để giải quyết điểm nghẽn này, các nhà khoa học tại IHME đã sử dụng tỉ lệ tử vong sau lây nhiễm (IFR) có thừ các khảo sát sau khi phân định và tính theo độ tuổi. Kết quả cho thấy, người già thường có nguy cơ tử vong cao hơn giới trẻ. “Chúng ta đều biết nguy cơ có liên quan rõ nét tới tuổi tác. Thêm mỗi một năm tuổi, nguy cơ tử vong sẽ tăng khoảng 9%” - ông Murray cho biết.
Dựa trên phân tích IFR theo tiêu chí độ tuổi lấy nguồn dữ liệu đầu vào từ hơn 300 khảo sát, IHME cho biết tỉ lệ tử vong đối với bệnh nhân mắc COVID-19 tại Mỹ đã giảm 30% so với thời điểm tháng 3/tháng 4 vừa qua.
IHME hiện cũng chuyển sang định lượng IFR dựa trên biến số theo thời gian. Theo đó, mức độ tử vong đã giảm dần kể từ đỉnh làn sóng thứ nhất hồi tháng 3 và tháng 4 vừa qua. Tỉ lệ giảm tương ứng với mức 0,19/ngày tính đến đầu tháng 9. Nhưng mức giảm này cũng khác nhau theo từng khu vực, phụ thuộc vào một số yếu tố như tỉ lệ mức béo phì trong cộng đồng dân cư (béo phì làm tăng nguy cơ tử vong với người nhiễm SARS-CoV-2) hay cấu trúc tuổi trong cộng đồng.