Sản phẩm Trung Quốc mất niềm tin tại Mỹ

Trước đây, các sản phẩm của Trung Quốc từng chiếm ưu thế tuyệt đối tại thị trường Âu - Mỹ, song hiện nay, hàng hóa Trung Quốc đang đối mặt với nguy cơ và thách thức khá nghiêm trọng. Theo “Tuần san châu Á” số đầu tháng 11/2011, lý do không phải là hàng hóa Trung Quốc ngày càng nhiều, cũng không phải do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới buộc phương Tây phải thu hẹp tiêu dùng, mà là khủng hoảng lòng tin đối với các sản phẩm xuất xứ Trung Quốc (Made in China). Thực tế này đang đòi hỏi Bắc Kinh cần có những điều chỉnh về mặt chiến lược tổng thể.

Hàng hóa của Trung Quốc đang đánh mất lòng tin của người tiêu dùng Mỹ. Ảnh: Internet

Trần Hiểu Dương, một du khách Thượng Hải lần đầu tiên đến Mỹ, trong tay cầm một danh sách mua hàng và lựa chọn hàng tại cửa hàng Marshalls chuyên bán đồ hiệu giảm giá. Cô đã rất thích một chiếc túi xách, song đành phải bỏ lại bởi nó được sản xuất tại Trung Quốc. Trần Hiểu Dương cho biết, “đến Mỹ mua hàng, nguyên tắc thứ nhất là không được mua nhầm sản phẩm “Made in China” bởi nếu không sẽ bị người khác chê cười”. Susan, một cư dân Mỹ cho “Tuần san châu Á” biết, mua hàng ở siêu thị, nếu như có thể lựa chọn, mọi người nói chung tránh mua sản phẩm “Made in China”, điều này đã trở thành thói quen tiêu dùng của nhiều người Mỹ. Người Trung Quốc ra nước ngoài không chịu mua hàng hóa do Trung Quốc sản xuất, ngay người Mỹ cũng kiêng kị điều này, thực tế này đang tạo ra thách thức to lớn đối với sản phẩm “Made in China” từng một thời làm mưa làm gió trên thị trường Mỹ.

Xuất khẩu sụt giảm

Mặc dù trong 8 tháng đầu năm nay, xuất khẩu của Trung Quốc vẫn tăng 23,6%, xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường Mỹ cũng tăng khoảng 20%, song các sản phẩm dệt may (vốn đại diện cho “nhãn mác” Trung Quốc) lại bắt đầu tụt dốc tại thị trường phương Tây. Sau khi phân tích tính toán số liệu nhập khẩu của Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) trong 6 tháng đầu năm nay, Jonathan Anderson, nhà kinh tế học của Công ty Dịch vụ Tài chính Toàn cầu Thụy Sĩ (UBS), đã nhận thấy định mức của ngành sản xuất công nghiệp nhẹ Trung Quốc bắt đầu tụt dốc, từ 50% xuống còn 48%. Các phân tích nói chung cho rằng, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã buộc xã hội phương Tây thu hẹp tiêu dùng, dẫn đến thị trường ảm đạm. Tuy nhiên, Tiến sĩ Trần Nhạc Vân, Chủ nhiệm Khoa Quản lý doanh nghiệp thuộc Đại học University of the West của Mỹ chỉ ra rằng các sản phẩm “Made in China” trên thực tế đang gặp phải khủng hoảng lòng tin, Trung Quốc cần có sự điều chỉnh về mặt chiến lược tổng thể.

Tài liệu mới nhất của Tổng cục Hải quan Trung Quốc cho thấy, xuất khẩu dệt may của Trung Quốc trong tháng 8 đạt 25,451 tỉ USD, giảm 2,51% so với tháng trước, bắt đầu xuất hiện xu thế giảm sút. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc trong 6 tháng cuối năm nay vẫn sẽ tiếp tục bi đát. Trong vài năm trước, tại một số siêu thị và chuỗi cửa hàng bán lẻ ở Mỹ, sản phẩm “Made in China” chiếm ưu thế tuyệt đối, nhưng nay, những sản phẩm được sản xuất từ các nước khác ngày càng nhiều hơn, từ bấm móng tay đến các sản phẩm điện máy bắt đầu tiến vào thị trường Mỹ một cách quy mô. Nhập khẩu của thị trường Mỹ trong năm 2010 đã tăng 23% so với năm 2009, nhưng sắt thép của Trung Quốc xuất sang Mỹ chỉ tăng 4,4%, đồ chơi và máy chơi game chỉ tăng 7,7%, may mặc tăng 18,1%.

Trong khi đó, tỉ lệ gia tăng hàng xuất khẩu của một số nước châu Á khác sang thị trường Mỹ lớn hơn rất nhiều so với Trung Quốc. Giày dép Trung Quốc trước đây vốn cơ bản chiếm vị trí “lũng đoạn” trên thị trường Mỹ, song trong năm ngoái, Inđônêxia đã chuyển vào Mỹ số lượng giày dép trị giá 2,1 tỉ USD, tăng 42% so với năm trước. Các sản phẩm của hãng Nike trước đây đa phần đều do Trung Quốc gia công, đến năm 2009, 51% sản phẩm của thương hiệu này đã được gia công tại Việt Nam.

Định hướng sai

Nguyên nhân có rất nhiều, song các nhà kinh tế học Trung Quốc đi tìm nguyên nhân ở tỉ giá hối đoái và sự suy yếu của thị trường Mỹ, hô hào các doanh nghiệp chuyển đổi mô hình, chuyển từ tiêu thụ ngoài nước sang tiêu thụ trong nước. Theo Trần Nhạc Vân, việc làm này đang định hướng sai các doanh nghiệp và định hướng sai cả giới quyết sách Trung Quốc.

Điều đáng nghiên cứu là Mỹ kiện Trung Quốc bán phá giá một số mặt hàng may mặc, xem xét vấn đề tranh chấp, một số doanh nghiệp đã phải từ bỏ ý định đến Trung Quốc gia công. Ví dụ như Wal-Mart, hệ thống siêu thị loại lớn từng coi Trung Quốc là nơi mua hàng chủ yếu, bắt đầu từ năm 2009 đã chuyển đơn đặt hàng trị giá 11 tỉ USD sang Ấn Độ, đồng thời từng bước nâng tỷ lệ mua hàng từ Ấn Độ lên 30%. Các mặt hàng Wal-Mart bán ra từng có tới 70% nhân tố Trung Quốc trong đó, song xét đến các yếu tố tranh chấp (thương mại), giá thành tăng và lựa chọn của người tiêu dùng…, tập đoàn này đã bắt đầu gia tăng các sản phẩm không phải do Trung Quốc sản xuất.

Theo cách lý giải thông thường, NDT tăng giá là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc duy trì sản phẩm Trung Quốc tiến vào thị trường Mỹ, giá thành sản phẩm quá cao đã ảnh hưởng đến sự cạnh tranh. Nhưng có số liệu cho thấy, kể từ khi nới lỏng tỷ giá năm 2005 đến năm 2009, giá trị đồng NDT đã tăng 19%, trong khi giá hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu vào Mỹ chỉ tăng 2,5%. Trần Nhạc Vân cho rằng, tỉ giá hối đoái không phải là nhân tố chủ chốt nhất ảnh hưởng tới hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu vào Mỹ.

Những năm gần đây, chất lượng sản phẩm của Trung Quốc không ổn định, thậm chí có vấn đề về an toàn, điều này đã gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc. Theo Trần Nhạc Vân, “số lượng đồ chơi nhập khẩu vào Mỹ tăng lên rất nhiều, song tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đồ chơi, trò chơi điện tử của Trung Quốc sang Mỹ thì lại giảm, nguyên nhân là do nhân tố chất lượng. Chất lượng hàng hóa có thể ảnh hưởng tới lòng tin và ý nguyện mua hàng của người tiêu dùng Mỹ”.

Thương hiệu “Made in China” mất uy tín

Trong khi sản phẩm của Nhật Bản và châu Âu đã có thương hiệu, sản phẩm của Trung Quốc, tuy rất nhiều cả về số lượng lẫn chủng loại, song lại không có thương hiệu. Trung Quốc chỉ có một thương hiệu, đó là “Made in China”, thương hiệu này đã bị tổn hại, các sản phẩm của nó đều bị ảnh hưởng. Theo quan sát của Trần Nhạc Vân, sản phẩm của Trung Quốc từng mang danh từ “giá rẻ, hàng đẹp”, song hiện nay giá cũng không còn rẻ và hàng cũng chẳng được đẹp. Sau khi chịu hiệu ứng “rập khuôn”, hàng hóa Trung Quốc đã trở thành một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng.

Trần Nhạc Vân cho rằng, có hai nguyên nhân: Một là giá thành sản xuất của Trung Quốc đang tăng lên, sự chênh lệch với hàng Nhật Bản không còn quá lớn; hai là nếu như trên sản phẩm có dòng chữ “Made in China” thì giá bán ra sẽ giảm đi rất nhiều, nếu là “Made in Japan” thì giá trị nhờ uy tín của sản phẩm có thể tăng lên rất nhiều. Năm 1990, Trần Nhạc Vân đã theo học tại phân hiệu Santa Barbara thuộc Đại học California và đã đạt được học vị Tiến sĩ tài chính học, thời gian du học và làm việc ở Mỹ đã hơn hai mươi năm, Tiến sĩ Trần đã từng đón tiếp rất nhiều khách Trung Quốc, đại đa số đều không mua hàng do Trung Quốc sản xuất. Bạn bè Trung Quốc muốn mua máy ảnh tại Mỹ, nhất định đòi mua hàng sản xuất tại Nhật Bản, dù giá cả có thể cao hơn nhưng tuyệt đối không mua hàng sản xuất tại Trung Quốc.

Giới lý luận Trung Quốc luôn nhấn mạnh sức tiêu dùng của Mỹ giảm sút sau khủng hoảng tài chính nên xuất khẩu của Trung Quốc cũng giảm sút, vì vậy cần thúc đẩy tiêu dùng trong nước. Trần Nhạc Vân cho rằng, “cách nghĩ này không hoàn toàn chính xác, lượng nhập khẩu của Mỹ vẫn đang tăng lên, nếu Trung Quốc muốn bỏ qua, Trung Quốc có thể thúc đẩy tiêu dùng trong nước nhưng không thể bỏ đi thị trường xuất khẩu. Nắm chắc chất lượng sản phẩm Trung Quốc, tạo dựng lại uy tín cho sản phẩm Trung Quốc, vẫn giữ chắc thị trường này mới là hướng kinh doanh đúng đắn”.

Phan Thành Dương (P/v TTXVN tại Hồng Công)

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN