Đây là một trong những chính sách có ảnh hưởng lớn đến hệ thống ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, qua rà soát thực tiễn triển khai do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện, nhiều doanh nghiệp phản ánh cơ sở pháp lý của chính sách này rất mỏng.
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 quy định: Quyết định giới hạn tăng trưởng tín dụng đối với tổ chức tín dụng chỉ trong những trường hợp cần thiết để bảo đảm an toàn cho tổ chức tín dụng và hệ thống các tổ chức tín dụng. Như vậy quy định này không rõ ràng biện pháp giới hạn tăng trưởng tín dụng sẽ được áp dụng rộng rãi, đại trà cho tất cả các tổ chức tín dụng hàng năm hay chỉ áp dụng cho một số tổ chức tín dụng mà qua thanh tra, giám sát phát hiện có rủi ro cao hoặc có hành vi vi phạm pháp luật. Chính điểm không rõ ràng này có thể dẫn tới nguy cơ tùy nghi phân bổ giới hạn tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng thương mại.
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban pháp chế VCCI khuyến nghị, cần bổ sung và điều chỉnh quy định về chính sách giới hạn tăng trưởng tín dụng. Theo đó, giới hạn tăng trưởng tín dụng (hay còn gọi là room tín dụng) là một trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ đang được tranh luận khá nhiều trong giới chuyên môn. Phần lớn các chuyên gia kinh tế - tài chính cho rằng, qua nghiên cứu và kinh nghiệm đều cho thấy thực tế trên thị trường tài chính quốc tế, các quốc gia đã không còn sử dụng công cụ này để điều hành. Việc sử dụng công cụ giới hạn tăng trưởng tín dụng còn có thể gây ra việc phát triển thiếu cạnh tranh, minh bạch, tạo cơ chế xin - cho, dễ phát sinh tiêu cực…
Theo Chuyên gia Phạm Xuân Hoè, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), công cụ giới hạn tăng trưởng tín dụng đã được Ngân hàng Nhà nước sử dụng để điều hành và có hiệu quả trong giai đoạn cách đây khoảng 11 năm, thời điểm mà lạm phát tăng cao. Hiện nay, khi nền kinh tế không chịu sức ép tương tự như giai đoạn trước đây, sức khỏe của hệ thống cũng đã khác, thì nó bộc lộ thiếu tính ưu việt, đã trở thành "vòng kim cô" hạn chế sự phát triển của các ngân hàng.
Ông Hòe cũng cho rằng thực tế room tín dụng hiện đang gây ra một số vấn đề như vốn cho nhu cầu phục hồi sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ; hàng loạt người mua nhà bị chủ đầu tư phạt do chậm nộp tiền… Hơn nữa, Ngân hàng Nhà nước đang có trong tay nhiều công cụ khác để thay thế nhằm kiểm soát mức cung tín dụng cho nền kinh tế và cũng thể hiện định hướng điều hành theo hướng thị trường hơn qua công cụ gián tiếp, thậm chí vẫn có thể dùng công cụ nửa hành chính, nửa thị trường. Do đó về mặt pháp lý, sớm hay muộn Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ phải cân nhắc bỏ room tín dụng.
Dù áp lực lạm phát hiện hữu tuy không cao nhưng với độ mở lớn của nền kinh tế, luôn có thể bị ảnh hưởng bởi biến động vĩ mô quốc tế; cùng với đó, nền kinh tế vẫn phụ thuộc quá lớn vào vốn tín dụng trong khi thị trường vốn chưa hoàn toàn phát triển và vẫn còn tình trạng các ngân hàng thương mại có sở hữu chéo, cho vay sân sau... dẫn đến nếu lỏng tay với tín dụng, sẽ có thể gây ra hệ quả nợ xấu bùng phát, bất ổn hệ thống, tác động lạm phát, ông Hòe phân tích.
Để định hướng hoạt động tín dụng ngành ngân hàng sao cho đạt hiệu quả cao, bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) cho biết, hệ thống ngân hàng cần hướng vào các nhiệm vụ như tiếp tục hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm soát rủi ro tín dụng đối với hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như đầu tư, kinh doanh chứng khoán, lĩnh vực bất động sản; đặc biệt là đầu tư, kinh doanh các dự án BOT giao thông.
Hệ thống ngân hàng sẽ tập trung tăng cường quản lý rủi ro đối với cho vay tiêu dùng. Ngân hàng Nhà nước theo dõi sát tình hình cấp tín dụng đối với ngành, lĩnh vực; nhất là các lĩnh vực thiết yếu, như xăng dầu, một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực; nhu cầu nhà ở của người dân, các dự án bất động sản nhà ở sắp hoàn thành xây dựng và bàn giao, có khả năng trả nợ vay đầy đủ và đúng hạn, đảm bảo tính pháp lý, có thanh khoản tốt, nhất là các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, các dự án nhà ở thương mại với giá phù hợp...bà Giang cho biết.
Cuối cùng, các tổ chức tín dụng cần phát triển đa dạng sản phẩm tín dụng ngân hàng phù hợp từng loại hình, nhu cầu sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp, nhất là đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã; tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận tín dụng, góp phần hạn chế "tín dụng đen".
Ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB) - đại diện một số ngân hàng thương mại nêu ý kiến, tín dụng vẫn là sản phẩm kinh doanh chính của các ngân hàng, đem lại lợi nhuận chủ yếu. Kinh doanh thì phải tăng doanh thu, tăng thị phần, nhưng trong bối cảnh cần giới hạn tăng trưởng tín dụng, các ngân hàng sẽ không được mở rộng kinh doanh một cách tự nhiên, theo mong muốn như nhiều loại hình doanh nghiệp khác vì ngành ngân hàng có tính đặc thù. Do đó, các ngân hàng thương mại phải tìm cách xoay chuyển để đảm bảo hoạt động kinh doanh.
"Từ phía ngân hàng thương mại, chúng tôi hiểu đó là biện pháp bắt buộc áp dụng để đảm bảo ổn định hệ thống, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho chính các ngân hàng phát triển bền vững. Từ đó, chúng tôi phải tính đến chiến lược kinh doanh phù hợp khi Ngân hàng Nhà nước triển khai chính sách giới hạn tăng trưởng tín dụng, như phải chuyển dịch sang các sản phẩm khác chẳng hạn", Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Phương Đông cho hay.
OCB đã xây dựng hệ thống quản trị rủi ro từ 5 năm trước, hoàn tất cơ sở hạ tầng đáp ứng tiêu chuẩn Basel II. Theo ông Nguyễn Đình Tùng, một mình OCB không quan trọng, quan trọng là cả hệ thống kinh tế, cả hệ thống tài chính tiền tệ cần phải ổn định.