Trước đó, bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên phạt Trương Mỹ Lan 20 năm tù về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”; tử hình về tội “Tham ô tài sản”; 20 năm tù về tội “Đưa hối lộ”; tổng hợp hình phạt chung là tử hình. Bị cáo đã có đơn kháng xin giảm nhẹ bản án.
Hội đồng xét xử nhận định, qua xét hỏi và tranh tụng công khai tại tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ nội dung vụ án. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, với tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, có căn cứ xác định Trương Mỹ Lan là chủ Tập đoàn Vạn Thịnh Phát cùng nhiều công ty khác hoạt động theo mô hình tập đoàn lấy Vạn Thịnh Phát làm trọng tâm, kiểm soát hoạt động của các công ty còn lại. Sau khi biết 3 ngân hàng gồm Ngân hàng SCB, Ngân hàng Việt Nam Tín Nghĩa và Ngân hàng Đệ Nhất mất khả năng thanh khoản, buộc phải hợp nhất hoặc mua lại, bị cáo Trương Mỹ Lan đã nhờ nhiều người thân tín, bạn bè đứng ra mua một lượng lớn cổ phần. Tính đến tháng 10/2022, bị cáo Lan đã thâu tóm, nắm giữ khoảng 91,5% cổ phần Ngân hàng SCB.
Cáo trạng cho thấy, dù bị cáo Trương Mỹ Lan không nắm giữ các chức vụ tại SCB nhưng gián tiếp sở hữu trên 91% cổ phần của ngân hàng. Do đó, bị cáo Lan có quyền chi phối, quyết định các vấn đề của ngân hàng này và trở thành người quyết định cao nhất tại Ngân hàng SCB. Lợi dụng vai trò là cổ đông gần như tuyệt đối của ngân hàng, Trương Mỹ Lan đã chỉ đạo các bị cáo là lãnh đạo Ngân hàng như: Bùi Anh Dũng, Trương Khánh Hoàng, Trần Thị Mỹ Dung, Võ Tấn Hoàng Văn… rút tiền ra khỏi Ngân hàng để phục vụ mục đích của mình. Điều này gây hậu quả thiệt hại đặc biệt lớn.
Kết quả điều tra xác định, trong giai đoạn từ ngày 1/1/2012 đến ngày 7/10/2022, bị cáo Trương Mỹ Lan đã chỉ đạo lập khống 2.527 hồ sơ cho vay để giải ngân từ Ngân hàng SCB tổng số tiền 1.066.608 tỷ đồng. Đến ngày 17/10/2022, nhóm bị cáo Lan còn 1.284 khoản vay với dư nợ 677.286 tỷ đồng. Các khoản vay đều thuộc nợ nhóm 5, không có khả năng thu hồi. Dư nợ gốc các khoản vay của bị cáo Trương Mỹ Lan chiếm 93% tổng dư nợ gốc của 23.042 khoản vay còn dư nợ tại Ngân hàng SCB.
Sau khi trừ giá trị tài sản đảm bảo, cáo trạng xác định, bị cáo Trương Mỹ Lan gây thiệt hại cho Ngân hàng SCB khoảng 498.000 tỷ đồng. Từ ngày 1/1/2012-31/12/2017, bị cáo vi phạm quy định về hoạt động của ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng, gây thiệt hại hơn 64.000 tỷ đồng, sau khi trừ giá trị tài sản đảm bảo các khoản vay. Từ ngày 1/1/2018-7/10/2022, bị cáo tham ô tài sản hơn 304.000 tỷ đồng nợ gốc và hơn 129.000 tỷ đồng lãi phát sinh từ nợ gốc, sau khi trừ giá trị tài sản đảm bảo cho các khoản vay.
Hành vi phạm tội của bị cáo Trương Mỹ Lan và đồng phạm là nguyên nhân căn bản, cốt yếu dẫn đến Ngân hàng SCB đã hoàn toàn mất thanh khoản, dư nợ tín dụng rất lớn không có khả năng thu hồi, vốn chủ sở hữu âm 443.769 tỷ đồng. Do đó, Hội đồng xét xử lập luận đã đủ dấu hiệu tội phạm để cáo buộc bị cáo Lan tội “Tham ô tài sản”. Nhận định này cũng là luận điểm để Hội đồng xét xử bác bỏ quan điểm của các luật sư bào chữa cho rằng bị cáo Lan không nắm giữ chức vụ gì trong Ngân hàng SCB, không là chủ thể của tội phạm.
Bên cạnh đó, Hội đồng xét xử cho biết, do chính sách pháp luật hình sự có sự thay đổi cơ bản về đường lối xử lý trước và sau ngày 1/1/2018, nên thời điểm sau ngày 1/1/2018, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tham ô tài sản” (tội này áp dụng cả trong lĩnh vực tư nhân).
Hội đồng xét xử nhấn mạnh, hành vi của bị cáo Trương Mỹ Lan gây ra đặc biệt nghiêm trọng; là người chủ mưu, đưa ra chủ trương cho các bị cáo khác thực hiện, cùng một lúc gây ra ba hành vi phạm tội, gây mất an ninh tiền tệ quốc gia. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo Lan 20 năm tù về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”; tử hình về tội “Tham ô tài sản”; 20 năm tù về tội “Đưa hối lộ” là có căn cứ, phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, không oan sai.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trương Mỹ Lan đã có chuyển biến sâu sắc về nhận thức, ăn năn hối cải và đưa ra nhiều tình tiết giảm nhẹ. Đồng thời, bị cáo đưa ra các phương án, đưa tài sản vào để khắc phục hậu quả bao gồm hơn 600 mã tài sản đã được định giá, 440 mã tài sản chưa được định giá, 658 mã tài sản của gia đình bị cáo Lan và Dự án 6A khu Trung Sơn Bình Chánh. Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử nhận thấy, có đủ căn cứ để chấp nhận một phần quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao Thành phố Hồ Chí Minh xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Lan về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”.
Tuy nhiên, xét về tổng thể, Hội đồng xét xử cho rằng vụ án này đặc biệt lớn, bị cáo phạm nhiều tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, nên không có cơ sở giảm nhẹ tội “Tham ô tài sản”, “Đưa hối lộ”. Ngoài ra, các tài sản bị cáo Lan đưa vào chưa đủ căn cứ pháp lý để xác định giá trị tài sản, từ đó không có căn cứ xác định bị cáo đã khắc phục đủ hậu quả của vụ án để áp dụng giảm nhẹ hình phạt tử hình cho bị cáo.
Song, Hội đồng xét xử cũng lưu ý, theo quy định pháp luật, người bị kết án tử hình sau khi bản án có hiệu lực, nếu tiếp tục tích cực khắc phục 3/4 hậu quả vụ án trong giai đoạn thi hành án thì sẽ được xem xét chuyển từ tử hình sang chung thân.