Vụ án thu hút sự quan tâm chú ý của dư luận xã hội khi dự án này tuy mới đưa vào khai thác nhưng đã có rất nhiều điểm bị hỏng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc vận hành khai thác, an toàn khi tham gia giao thông, gây bức xúc trong nhân dân. Mặc dù xác định giá trị các hạng mục công trình xây dựng không đảm bảo, nhưng Chủ đầu tư và các đơn vị liên quan đã nghiệm thu, thanh toán hơn 811 tỷ đồng cho các đơn vị thi công dự án.
Hội đồng xét xử tại phiên tòa gồm 5 người (2 Thẩm phán, 3 Hội Thẩm nhân dân) do Thẩm phán Vũ Quang Huy làm chủ tọa. Hai kiểm sát viên của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội và một kiểm sát viên của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao (biệt phái về Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trong thời gian diễn ra phiên xử) thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm tại phiên tòa.
Trong vụ án này, 36 bị cáo đều bị Viện Kiểm sát nhân dân tối cao truy tố về tội “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại Điều 224, khoản 3 – Bộ luật Hình sự năm 2015, bao gồm: Nguyễn Mạnh Hùng (sinh năm 1971) và Lê Quang Hào (sinh năm 1976) cùng là Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam - VEC, nguyên Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu cơ sở Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi; Hoàng Việt Hưng (sinh năm 1974, Giám đốc Ban Quản lý Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Nguyễn Tiến Thành (sinh năm 1982, nguyên Giám đốc Ban Quản lý dự án, nguyên Giám đốc gói thầu số 4, số 5, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Đỗ Ngọc Ân (sinh năm 1973, Phó Giám đốc Ban Quản lý dự án, nguyên Giám đốc gói thầu số 4,5,6,7, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Lê Nhiều (sinh năm 1975, Phó Giám đốc Ban Quản lý Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, nguyên Giám đốc gói thầu số 1,2,3B, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Hà Văn Bình (sinh năm 1976, nguyên Giám đốc gói thầu số 6,7 thuộc Ban Quản lý Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Vũ Như Khuê (sinh năm 1955, nguyên Giám đốc Ban điều hành Liên danh gói thầu số 1, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Cao Hừng Đông (sinh năm 1969) và Nguyễn Mạnh Cường (sinh năm 1982) đều nguyên là Phó Giám đốc Ban điều hành Liên danh gói thầu số 1, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Quản Trọng Tuấn (sinh năm 1959, nguyên Giám đốc Ban điều hành Liên danh gói thầu số 3B, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Võ Quốc Thiều (sinh năm 1969) và Phan Ngọc Thơm (sinh năm 1966) đều nguyên là Phó Giám đốc Ban Điều hành Liên danh gói thầu số 3B, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi; Phan Khánh Toàn (sinh năm 1981, nguyên Giám đốc Ban Điều hành Liên danh gói thầu số 4, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Đỗ Tấn Nam (sinh năm 1976, nguyên Giám đốc Ban Điều hành của Công ty Tuấn Lộc thi công gói thầu số 4, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Nguyễn Văn Cảnh (sinh năm 1985, nguyên Giám đốc Ban Điều hành của Công ty Thăng Long thi công gói thầu số 4, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Vũ Dũng (sinh năm 1970) và Đào Văn Hoành (sinh năm 1961) đều nguyên là Giám đốc Ban Điều hành của Tổng Công ty Sông Đà thi công gói thầu số 4, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi; Phạm Đình Phú (sinh năm 1962, nguyên Giám đốc Ban Điều hành Liên danh gói thầu số 5, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Lương Chung Dũng (sinh năm 1981, nguyên Chỉ huy trưởng phụ trách thi công của Công ty Thành Phát tại gói thầu số 5, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Nguyễn Thành An (sinh năm 1973) và Nguyễn Hồng Phước (sinh năm 1982) đều nguyên là Phó Giám đốc Ban Điều hành Liên danh gói thầu số 7, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); Takao Inami (quốc tịch Nhật Bản, sinh năm 1949, Tư vấn trưởng, Giám đốc Văn phòng nhà thầu tư vấn giám sát Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi); cùng các bị cáo đều nguyên là kỹ sư nhà thầu tư vấn giám sát, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi gồm: Hoàng Trung Hậu (sinh năm 1981), Nguyễn Tấn Chánh (sinh năm 1976), Lê Công Bằng (sinh năm 1977), Quách Văn Phúc (sinh năm 1986), Phan Doãn Giang (sinh năm 1982), Đào Trọng Hiếu (sinh năm 1984), Nguyễn Đức Dũng (sinh năm 1968), Nguyễn Bá Giang (sinh năm 1972), Lã Văn Hải (sinh năm 1978), Kiều Đức Công (sinh năm 1983), Nguyễn Trung Thu (sinh năm 1983), Phạm Lê Bắc (sinh năm 1980), Phạm Văn Bảo (sinh năm 1983).
Tại phiên tòa, hơn 60 luật sư có mặt bào chữa cho 36 bị cáo. Tổng Công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC) có mặt tại phiên tòa với tư cách là nguyên đơn dân sự.
Tòa cũng triệu tập gần 50 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, trong đó có các pháp nhân: Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 5 - Cienco5, Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 1 - Cienco 1, Công ty Trách nhiệm hữu hạn liên hợp xây dựng Vạn Cường, Tổng Công ty Xây dựng giao thông 6, Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng 703, Công ty Cổ phần đầu tư thương mại và xây dựng công trình số 1– Trico, Công ty Cổ phần Tập đoàn Cienco4, Tổng Công ty Xây dựng Sông Đà – Công ty Cổ phần, Tổng Công ty Xây dựng Thăng Long, Công ty Cổ phần Đầu tư và xây dựng giao thông Phương Thành, Công ty Trách nhiệm hữu hạn xây dựng Thành Phát, Tổng Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam – Vinaconex, Tổng Công ty Thành An, Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 8, Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng và kỹ thuật Vinaconex F&C, Công ty Trách nhiệm hữu hạn dịch vụ thương mại sản xuất xây dựng Đông Mê Kông, Công ty cổ phần Sông Đà 2... Một số công ty như: Tổng Công ty Xây dựng Trường Sơn, Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng Tuấn Lộc… có đơn xin xét xử vắng mặt. Nhóm các ngân hàng phát hành bảo lãnh thực hiện hợp đồng và bảo lãnh tiền giữ lại gồm: BIDV, Agribank, MBBank,VPBank, Vietcombank, TPBank.
Hội đồng xét xử cũng triệu tập đến phiên tòa đại diện Bộ Giao thông Vận tải, đại diện Hội đồng Kiểm tra công tác nghiệm thu Nhà nước, những người giám định, người phiên dịch, người làm chứng và một số cá nhân khác có liên quan tại VEC.
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi do VEC làm chủ đầu tư có tổng chiều dài toàn tuyến là hơn 139 km, từ thành phố Đà Nẵng đến thành phố Quảng Ngãi (tỉnh Quảng Ngãi). Giai đoạn 1 của dự án dài 65 km, từ thành phố Đà Nẵng đến thành phố Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam) gồm có 8 gói thầu xây lắp chính, trong đó có 7 gói thầu thi công đường và 1 gói thầu chủ yếu thi công cầu.
Mặc dù mới được đưa vào khai thác nhưng đoạn đường 65 km đã có rất nhiều điểm bị hỏng biểu hiện trên mặt đường bê tông nhựa, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc vận hành khai thác, an toàn khi tham gia giao thông.
Kết luận giám định cho thấy, chất lượng công trình xây dựng hoàn thành đối với tất cả 7 gói thầu (phần đường) thuộc giai đoạn I của dự án không đảm bảo chất lượng đúng như tiêu chuẩn kỹ thuật, yêu cầu thiết kế dự án, như chiều dày lớp bê tông nhựa VTO/Novachip không đảm bảo quy định, độ rỗng dư, hàm lượng nhựa, hệ số thấm không đạt yêu cầu quy định; lớp bê tông nhựa hạt mịn thiếu chiều dày bình quân, độ rộng dư giao động rất lớn; các lớp bê tông nhựa và đá dăm gia cổ nhựa có hiện tượng bong tróc cốt liệu...
Quá trình thi công, nghiệm thu, các bên liên quan đã không thực hiện đo nghiệm thu cường độ mặt đường trên các lớp vật liệu hoàn thành, không đo hệ số thấm của lớp bê tông nhựa tạo nhám để đánh giá chất lượng công trình xây dựng sau khi thi công, dẫn đến không kiểm soát được chất lượng hạng mục công trình xây dựng nhưng đã ký nghiệm thu, đề nghị đưa công trình vào khai thác sử dụng.
Cáo trạng kết luận, VEC, Ban Quản lý dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi và các đơn vị liên quan không có phương án, biện pháp chỉ đạo cụ thể để rà soát, kiểm tra, loại bỏ vật liệu không đảm bảo chất lượng, dẫn đến cả 7 gói thầu đều sử dụng đá tại các mỏ này làm vật liệu sản xuất các lớp cấp phối đá dăm và bê tông nhựa các loại.
Mặc dù các hạng mục công trình xây dựng không đảm bảo chất lượng nhưng chủ đầu tư và các đơn vị liên quan đã nghiệm thu, thanh toán hơn 811 tỷ đồng cho các đơn vị thi công dự án.
Các bị cáo đã có hành vi không tuân thủ các quy định của pháp luật về xây dựng, dẫn đến tổ chức thi công, nghiệm thu các hạng mục công trình, nghiệm thu công trình xây dựng hoàn thành không đảm bảo chất lượng, vi phạm các quy định của Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 của Chính phủ, Luật Xây dựng năm 2014 và phạm vào tội “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại Điều 224 – Bộ luật Hình sự năm 2015.
Dự kiến, phiên tòa kéo dài trong 1 tháng.