Trong đó khu vực châu Phi và châu Á có mức giảm cao nhất, lần lượt là 16% và 13%. Chỉ có châu Đại Dương và châu Âu chứng kiến số ca mắc mới tăng nhẹ lần lượt là 3% và 7%. Trên phạm vi toàn cầu, số ca mắc mới giảm 8% so với tuần trước đó. Trung bình mỗi ngày thế giới ghi nhận khoảng 457.000 ca nhiễm mới, thấp hơn 11% so với tuần trước và đây là tuần thứ năm liên tiếp ghi nhận số ca mắc mới giảm.
Những bước tiến về tiêm chủng và kiểm soát dịch đã tạo ra những thay đổi rõ rệt. Thêm nhiều quốc gia và khu vực đang trở lại trạng thái bình thường mới trong đời sống kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, những ổ dịch mới xuất hiện tại một số nước châu Á hay Nga tuần qua khiến lộ trình "trở lại cuộc sống bình thường" không phải lúc nào cũng suôn sẻ, buộc chính phủ các nước phải thực hiện từng bước một cách thận trọng.
Trong tuần qua, trung bình mỗi ngày thế giới đã tiêm khoảng 27 triệu liều vaccine phòng COVID-19. Thống kê của ourworldindata.com cho thấy tới ngày 3/10, đã có 6,27 tỷ liều vaccine được tiêm trên toàn thế giới, tỷ lệ tiêm ít nhất một mũi là 45,4% dân số toàn cầu. Châu Á đang có sự bứt tốc mạnh mẽ trong cuộc đua tiêm chủng. Sau khởi đầu tương đối chậm, Hàn Quốc, Nhật Bản và Malaysia giờ đây đã vượt Mỹ về tỷ lệ tiêm chủng trên mỗi 100 dân, điều từng khó có thể nghĩ đến hồi đầu năm nay. Tỷ lệ này của Hàn Quốc là 1,49, Malaysia 0,92, Nhật Bản 0,9, trong khi Mỹ là 0,19.
Mặc dù vậy, châu Á vẫn phải cảnh giác với nguy cơ từ những biến thể của virus khi hầu hết các nước trong khu vực chưa thể tự sản xuất vaccine và có thể đối mặt với những vấn đề về nguồn cung trong thời gian tới, khi Liên minh châu Âu tiếp tục hạn chế xuất khẩu vaccine và nhiều nước bắt đầu triển khai tiêm mũi vaccine tăng cường. Hạn chế nguồn cung vaccine cũng là vấn đề của châu Phi và khu vực Mỹ Latinh. Tiến độ tiêm chủng ở châu Phi vẫn chưa được cải thiện khi có một nửa các quốc gia trong châu lục mới chỉ tiêm đủ liều vaccine cho 2% dân số. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trong tổng số 54 quốc gia ở châu Phi, chỉ có 15 quốc gia đã tiêm vaccine ngừa COVID-19 cho ít nhất 10% dân số tính đến ngày 30/9. Tại Mỹ Latinh, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) ước tính phải đến năm 2022 mới có thể hoàn thành tiêm chủng cho 70% dân số khu vực.
Trong khi đó, chương trình tiêm phòng tại một số nước phát triển đang chậm lại khiến số ca mắc mới tăng. Sau 2 tuần giảm, số ca mắc mới trong 7 ngày qua ở Đức đã tăng trở lại. Các chuyên gia lo ngại Đức có thể phải hứng chịu một làn sóng dịch bệnh Thu-Đông vào tháng 10. Tại Nga, số ca mắc mới và tử vong trong 7 ngày liên tục tăng. Nga hiện đứng đầu châu Âu về số ca tử vong do COVID-19 trong bối cảnh mới chỉ khoảng 30% dân số Nga được tiêm vaccine COVID-19. Tại Mỹ, mặc dù số ca mắc mới có xu hướng giảm và phần lớn các ca mắc mới là những người chưa tiêm vaccine, song Tiến sĩ Anthony Fauci, chuyên gia hàng đầu về bệnh truyền nhiễm của Nhà Trắng, cảnh báo, một số người coi việc dịch bệnh chứng bệnh là lý do để tiếp tục không tiêm chủng. Đáng chú ý, số bệnh nhân tử vong vì COVID-19 ở Mỹ tuần qua đã vượt qua con số 700.000.
Theo số liệu do hãng tin Reuters công bố, số ca tử vong vì COVID-19 trên thế giới đã vượt qua ngưỡng 5 triệu ca, trong bối cảnh biến thể Delta đang khiến số ca nhiễm và tử vong ở những người chưa tiêm phòng tăng cao.
Phân tích của Reuters cho thấy nếu mốc 2,5 triệu ca tử vong đầu tiên đã được ghi nhận trong hơn một năm kể từ khi dịch bùng phát, thì mốc 2,5 triệu ca tiếp theo được ghi nhận sau khoảng 8 tháng. Hơn một nửa số ca tử vong toàn cầu được ghi nhận ở Mỹ, Brazil, Ấn Độ, Nga và Mexico. Trong tuần qua, trung bình 8.000 ca tử vong được ghi nhận mỗi ngày trên toàn cầu, tức là 5 ca/phút.
Một trong những diễn biến gây lo ngại trong tuần qua là việc một số quốc gia châu Á có tỷ lệ tiêm chủng cao lại đối mặt với dịch bệnh phức tạp hơn với số ca mắc mới tăng đột biến sau một thời gian có sự cải thiện. Singapore chứng kiến số ca mắc mới trong tuần tăng 70% so với tuần trước đó. Dịch bệnh phức tạp ở Singapore diễn ra trong bối cảnh nước này vừa nới lỏng các hạn chế sau khi được ghi nhận là một trong những nước có tỷ lệ tiêm chủng cao trong khu vực và thế giới, với hơn 80% dân số đã được tiêm vaccine. Trước tình hình trên, Singapore đã phải siết chặt lại một số hạn chế, trong đó giới hạn không được tụ tập quá 2 người và yêu cầu người dân làm việc tại nhà, đồng thời hoãn một phần kế hoạch mở cửa trở lại. Tỷ lệ lây nhiễm mới tại Hàn Quốc cũng tăng mạnh 41% so với 7 ngày trước đó. Sự gia tăng đột biến số ca mắc mới là người dân Hàn Quốc di chuyển nhiều, tập trung đông trong kỳ nghỉ Trung thu (Chuseok) tuần trước.
Nguy cơ dịch bệnh luôn hiện hữu buộc các nước phải thận trọng, mở cửa từng bước theo lộ trình. Chính phủ Hàn Quốc đang tiến tới áp dụng một kế hoạch "sống chung với dịch bệnh", theo đó COVID-19 được điều trị như một bệnh hô hấp truyền nhiễm giống như cúm mùa cùng với việc nới lỏng các quy định giãn cách xã hội "theo từng giai đoạn và dần dần" khi tỷ lệ người được tiêm chủng đầy đủ vượt ngưỡng 70%.
Ngày 1/10 được xem là cột mốc đáng nhớ đối với người dân Tokyo và 18 tỉnh của Nhật Bản khi chính phủ nước này quyết định dỡ bỏ hoàn toàn tình trạng khẩn cấp tại những vùng này, từng bước chuyển sang giai đoạn mới -sống chung an toàn với COVID-19. Đây cũng là lần đầu tiên kể từ tháng 4/2021, toàn bộ 47 tỉnh tại Nhật Bản không phải áp dụng tình trạng khẩn cấp ở bất kỳ hình thức nào.
Để có thể tiến tới mốc này, Chính phủ Nhật Bản đã đẩy mạnh chiến dịch phủ sóng vaccine theo lộ trình. Thống kê cho thấy hơn 70% dân số Nhật Bản đã tiêm ít nhất một mũi vaccine phòng COVID-19, vượt cả Mỹ (64%), thậm chí một số vùng nông thôn tại nước này còn đạt mức 100%.
Vừa kiểm soát dịch vừa đảm bảo hoạt động kinh tế đòi hỏi Chính phủ Nhật Bản chuẩn bị kỹ một lộ trình nới lỏng các biện pháp hạn chế đối với các lĩnh vực. Trước mắt, trong vòng 1 tháng, Nhật Bản thử nghiệm cho phép các cửa hàng và cơ sở ăn uống, bán đồ uống có cồn ở Tokyo và các tỉnh khác mở cửa đến 21h, song phải đảm bảo các điều kiện an toàn như lắp đặt tấm chắn, cải thiện hệ thống thông gió. Điểm đáng chú ý trong kế hoạch mở cửa trở lại của Nhật Bản là chủ trương phong tỏa cục bộ, tức là chỉ thực hiện biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt tại những khu vực có tỷ lệ lây nhiễm cao, nhờ đó các cơ sở kinh doanh mới có thể hoạt động trở lại.
Tại Malaysia, chính phủ nước này cũng bắt đầu triển khai Kế hoạch phục hồi quốc gia gồm 4 giai đoạn, theo đó trong giai đoạn 1 sẽ có 11 lĩnh vực kinh doanh ở các bang được mở cửa trở lại. Ở giai đoạn 2, các hoạt động kinh tế sẽ từng bước mở cửa và 80% lao động đi làm. Ở giai đoạn 3, mọi hoạt động kinh tế được phục hồi, trừ những lĩnh vực nguy cơ lây nhiễm COVID-19 và buộc phải tập trung đông người. Chính phủ sẽ cân nhắc giai đoạn 4, cũng là giai đoạn cuối cùng, mở cửa mọi hoạt động thường ngày, cho phép nhiều hoạt động xã hội hơn và phục hồi đi lại liên bang, du lịch nội địa.
Thái Lan cũng công bố kế hoạch mở cửa trở lại đất nước trong vòng vài tháng tới theo 4 giai đoạn tùy theo các yếu tố, bao gồm doanh thu du lịch, địa lý và các biện pháp phòng ngừa COVID-19.
Mặc dù Thái Lan vẫn kéo dài tình trạng khẩn cấp để phòng chống COVID-19 cho tới ngày 30/11, nhưng sẽ cho phép thêm các doanh nghiệp mở cửa trở lại và rút ngắn thời gian giới nghiêm ban đêm. Việc nới lỏng các biện pháp kiểm soát dịch bệnh này được áp dụng cho 29 tỉnh thuộc vùng đỏ sẫm thuộc diện kiểm soát tối đa và nghiêm ngặt từ ngày 1/10.
Có thể thấy, từng bước nới lỏng hạn chế để dần mở cửa nền kinh tế, từng bước đưa cuộc sống trở lại trạng thái bình thường trên cơ sở bảo đảm an toàn hiện là xu thế được nhiều quốc gia lựa chọn trong bối cảnh những biến thể mới của COVID-19 vẫn đang xuất hiện và thế giới chưa thể đạt mục tiêu miễn dịch cộng đồng.
Trên thực tế, một nghiên cứu chính sách do hãng CNN thực hiện tại gần 20 quốc gia cho thấy việc “nóng vội” mở cửa trở lại nền kinh tế ngay khi dịch bệnh có dấu hiệu lắng dịu là một phần nguyên nhân khiến các làn sóng lây nhiễm mới tái bùng phát mạnh tại Mỹ, Brazil và Ấn Độ cuối năm ngoái và đầu năm nay.
Một lộ trình thận trọng, chặt chẽ, chắc chắn và có kiểm soát sẽ là “chìa khóa” để mở cánh cửa hướng cuộc sống bình thường mới an toàn với COVID-19.