Nhiều tổ chức đầu tư sử dụng xếp hạng tín nhiệm để thẩm định sơ bộ trong quá trình đánh giá tín dụng. Kết quả xếp hạng tín nhiệm thể hiện quan điểm độc lập từ các tổ chức xếp hạng, không phải là khuyến nghị chuyên gia.
Tuy nhiên, thông tin do các tổ chức xếp hạng cung cấp được các nhà đầu tư đánh giá là đáng tin cậy, chuẩn mực và có tính cập nhật cao. Những đánh giá về hệ số tín nhiệm là công cụ quan trọng hỗ trợ việc cải thiện hiệu quả thị trường vốn, giảm chi phí cho cả người đi vay và nhà đầu tư. Việc xếp hạng tín nhiệm quốc gia và cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia, được coi là chỉ số cơ bản để các nhà đầu tư xem xét trước khi có quyết định đầu tư vào một nước.
Nhận thức rõ điều này, ngày 6/2/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 304/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nâng cao xếp hạng tín nhiệm quốc gia giai đoạn 2013-2020 và hiện nay Bộ Tài chính đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan, xây dựng Đề án Cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia giai đoạn 2021-2030, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.
Thông tấn xã Việt Nam xin giới thiệu chùm 3 bài viết về cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia nhằm phân tích rõ hơn về những thuận lợi, khó khăn cũng như giải pháp để Việt Nam nâng hạng tín nhiệm quốc gia.
Bài 1: Nâng xếp hạng tín nhiệm
Bộ Tài chính cho biết, xét bối cảnh Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình và sẽ dần phụ thuộc nhiều hơn vào vay thương mại nước ngoài, việc cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia sẽ giúp Chính phủ, doanh nghiệp, định chế tài chính và các tổ chức tín dụng đạt hiệu quả chi phí cao hơn khi huy động vốn vay hoặc phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế.
Việc xây dựng mục tiêu, định hướng phấn đấu cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia sẽ tạo động lực cho từng ngành, lĩnh vực, góp phần tích cực vào đánh giá mức xếp hạng và triển vọng xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam, bám sát mục tiêu tổng quát đề ra của Đảng và Nhà nước trong tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 về việc “nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế”.
Trên cơ sở này, Bộ Tài chính đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan, xây dựng Đề án Cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia giai đoạn 2021-2030, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.
Theo Bộ Tài chính, thời gian tới phát triển bền vững tiếp tục là xu thế bao trùm thế giới; kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn.
Cùng với đó, tình hình quốc tế vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp, chịu tác động mạnh của đại dịch COVID-19, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng gặp nhiều trở ngại, thách thức; chủ nghĩa dân túy, bảo hộ có xu hướng tăng lên; tăng trưởng kinh tế thế giới và thương mại, đầu tư quốc tế có xu hướng giảm. Cùng đó, nợ công toàn cầu tăng, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng, việc triển khai các gói cứu trợ với quy mô lớn, thông qua nới lỏng chính sách tài khóa, tiền tệ ở nhiều nước đang tạo ra áp lực lạm phát, bong bóng tài sản và nguy cơ bất ổn đối với các thị trường tài chính, bất động sản khi các gói cứu trợ này kết thúc.
Tại Việt Nam, sau 35 năm đổi mới, môi trường hoà bình, ổn định chính trị, đảm bảo các cân đối vĩ mô vẫn là những yếu tố thuận lợi, tạo niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Môi trường đầu tư được cải thiện, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn tồn tại, hạn chế và tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy cơ tụt hậu, mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình còn lớn; trình độ khoa học, công nghệ, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, độ mở nền kinh tế cao, khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên ngoài còn yếu; mức độ tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực, năng lực tiếp cận nền kinh tế số, xã hội số còn hạn chế. Trong khi đó nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội rất lớn trong khi nguồn vốn nhà nước, vốn vay ưu đãi nước ngoài đều có xu hướng giảm.
Ngoài ra, đại dịch COVID-19 đang tác động nghiêm trọng tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, tới thu, chi, cân đối ngân sách nhà nước, tăng trưởng kinh tế có thể không đạt như dự kiến, nợ xấu hệ thống ngân hàng có thể gia tăng, không gian chính sách tài khóa có thể bị thu hẹp do huy động bổ sung các nguồn lực hỗ trợ chống dịch sẽ là những thách thức đối với triển vọng kinh tế vĩ mô và việc xếp hạng tín nhiệm quốc gia.
Vì vậy, Bộ Tài chính nêu rõ, mục tiêu tổng quát của Đề án phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý ngày càng hoàn thiện, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; nền kinh tế phát triển mạnh mẽ trên cơ sở khoa học, công nghệ gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo thuận lợi để nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia lên mức Đầu tư, góp phần giảm chi phí huy động vốn, giảm mức rủi ro tín dụng quốc gia.
Về mục tiêu cụ thể, Đề án đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 đạt mức xếp hạng tín nhiệm từ Baa3 (đối với Moody’s) hoặc BBB- (đối với S&P và Fitch) trở lên.
Cùng với đó là các chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cả giai đoạn khoảng 7%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD; tổng đầu tư xã hội bình quân đạt từ 33-35% GDP.
Ngoài ra, Đề án đặt các chỉ tiêu cụ thể về tài khóa và tiền tệ, các chỉ tiêu chủ yếu về xã hội và môi trường trong phạm vi được cấp thẩm quyền phê duyệt, trên cơ sở bám sát các chỉ tiêu cụ thể đề ra tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030, các Chiến lược ngành giai đoạn 2021-2030.
Để có thể đạt mục tiêu đề án cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia giai đoạn 2021 – 2030 đề ra, Bộ Tài chính cho rằng cần triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 và các Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từng giai đoạn 5 năm; cải thiện chất lượng thể chế, quản trị, tăng cường công khai, minh bạch dữ liệu phù hợp với thông lệ quốc tế.
Song song với đó là xây dựng nền tài chính công vững mạnh, mở rộng cơ sở thu bền vững để cải thiện các chỉ số nợ và thúc đẩy củng cố tài khóa; cải thiện cơ cấu và chất lượng của khu vực ngân hàng và doanh nghiệp Nhà nước để giảm rủi ro nghĩa vụ nợ dự phòng đối với ngân sách Nhà nước. Đặc biệt là tăng cường hiệu quả, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của xếp hạng tín nhiệm quốc gia, tăng cường hợp tác với các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và các tổ chức quốc tế.
Chính phủ đã có hợp tác chính thức với cả 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế lớn nhất là Moody’s Investors Service (Moody’s), S&P Global Ratings (S&P) và FitchRatings (Fitch); hiệu quả xếp hạng tín nhiệm quốc gia liên tục được tăng cường, hệ số tín nhiệm và triển vọng xếp hạng có nhiều cải thiện qua các năm.
Ba tổ chức này đều xem xét xếp hạng tín nhiệm quốc gia ở bốn nhân tố chính gồm: năng lực thể chế với tỷ trọng từ 17-25%, hiệu quả hoạt động kinh tế và tiền tệ với tỷ trọng từ 22-42%, tài chính công với tỷ trọng từ 18-30% và tài chính đối ngoại với tỷ trọng từ 18-24%.
Trước đó, tại Đề án nâng cao xếp hạng tín nhiệm quốc gia giai đoạn 2013-2020 đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Theo đó, từ năm 2013 đến năm 2021, xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam luôn nằm trong có xu hướng tốt lên. Cụ thể là tăng từ B2 lên Ba3 theo đánh giá của Moody’s, BB- lên BB theo đánh giá của S&P và B + lên BB theo đánh giá của Fitch.
Hiện tại, cả 3 tổ chức xếp hạng đều đánh giá Việt Nam có triển vọng tích cực và điều này phản ánh rất đúng về triển vọng tăng trưởng dài hạn cũng như sự phục hồi như kỳ vọng của nền kinh tế mặc dù phải chịu đựng những khó khăn từ đại dịch COVID-19.
Song vẫn còn những hạn chế như thể chế kinh tế chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế, tính ổn định chưa cao khiến cho một số chỉ tiêu không đạt mục tiêu đề ra như chỉ tiêu quan trọng về phát triển kinh tế là tốc độ tăng trưởng GDP, thu nhập bình quân đầu người đạt mức thấp, đến cuối giai đoạn 2013-2020, Việt Nam chưa đạt được mức “Đầu tư”.
Bộ Tài chính cho biết, việc thực hiện đề án giai đoạn 2013-2030 đã rút ra những bài học kinh nghiệm như việc xếp hạng tín nhiệm quốc gia là yếu tố quyết định mức chi phí huy động vốn trên thị trường tài chính quốc tế; đánh giá bất lợi về hệ số hoặc triển vọng xếp hạng tín nhiệm quốc gia có thể có tác động tiêu cực đối với xếp hạng tín dụng cho các ngân hàng hoặc công ty trong nước.
Điều này càng có ý nghĩa khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình, nguồn vốn ODA giảm dần đi đến kết thúc, phải dựa nhiều hơn vào vốn vay ưu đãi nước ngoài, vay thương mại trên thị trường vốn quốc tế.
Bài 2: Triển vọng giúp Việt Nam có vị thế tốt