Việc rà soát cắt giảm các quy định này là rất cần thiết, tuy nhiên cơ quan soạn thảo cân nhắc, bổ sung vào phương án cắt giảm thêm hai quy định liên quan tới giấy phép nhập khẩu tàu cá và điều kiện cơ sở đóng mới cải hoán tàu cá.
Luật Thủy sản quy định, tàu cá nhập khẩu phải được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp phép. Quy định này sẽ làm tăng các thủ tục hành chính không cần thiết cho việc nhập khẩu tàu cá. Các tàu cá nhập khẩu phải có giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật còn hiệu lực và phải được cấp giấy phép khai thác thủy sản trước khi thực hiện hoạt động khai thác. Do đó, quy định này là không cần thiết.
Luật Thủy sản cũng quy định, các điều kiện của cơ sở đóng mới, cải hoán tàu cá phải bao gồm điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị; bộ phận giám sát, quản lý chất lượng, nhân lực.
Theo VCCI, quy định này cũng không cần thiết, vì tất cả các tàu cá được đóng mới hoặc cải hoán đều sẽ được đăng kiểm trước khi đưa vào khai thác thực tế. Như vậy, chất lượng và an toàn tàu cá đã được bảo đảm bằng một biện pháp chặt chẽ và không cần thiết phải tăng cường bằng việc quy định điều kiện cơ sở đóng mới, cải hoán tàu cá.
Trong trường hợp việc đăng kiểm không đủ năng lực để bảo đảm chất lượng và an toàn tàu cá thì nên tăng cường cho hoạt động này chứ không nên đặt ra quy định là điều kiện đầu tư kinh doanh. Thêm nữa, việc quy định cứng các cơ sở đóng mới, cải hoán tàu cá phải có từng loại máy móc cụ thể được liệt kê sẽ làm giảm sự linh hoạt của thị trường.
Ví dụ, một cơ sở sản xuất chỉ tập trung thi công phần máy, phần ngư cụ, hoặc phần gỗ, phần mỏ neo và bán lại cho các cơ sở khác để tiếp tục lắp ráp, hoàn thiện. Việc bắt buộc có đầy đủ các loại máy móc sẽ không giúp các cơ sở có thể chuyên môn hóa nhằm nâng cao hiệu quả, năng suất lao động.
Đó chính là những lý do, VCCI đề xuất cơ quan soạn thảo bổ sung phương án cắt giảm theo hướng bỏ hai quy định nên trên.
Ngoài ra, yêu cầu của nghị định hướng dẫn thi hành Luật Thủy sản là tài liệu, hồ sơ bằng chữ nước ngoài cần phải được công chứng bản dịch, hoặc có xác nhận của cơ quan dịch thuật cũng là quy định không thực sự cần thiết.
Bởi thực tế, doanh nghiệp có thể tự dịch và tự chịu trách nhiệm về bản dịch của mình, đồng thời sẽ tiết kiệm nhiều thời gian và chi phí cho doanh nghiệp so với việc phải thuê ngoài. Do đó, cơ quan soạn thảo nên xem xét bổ sung phương án cắt giảm quy định này theo hướng cho phép doanh nghiệp được tự dịch các tài liệu bằng tiếng nước ngoài.
Liên quan tới thời hạn của giấy phép hoạt động, thông thường, một số loại giấy phép đều quy định thời hạn có hiệu lực. Sau thời gian đó, doanh nghiệp phải nộp hồ sơ xin cấp giấy phép mới. Tuy nhiên, quy định này cũng không cần thiết vì việc xin giấy phép là yêu cầu đối với các doanh nghiệp khi mới bắt đầu tham gia thị trường.
Các doanh nghiệp khi đang hoạt động thường vẫn tiếp tục đáp ứng đủ các quy định nói trên nên việc xác định doanh nghiệp đủ hay không đủ điều kiện hoạt động có thể được thực hiện thông qua việc thanh, kiểm tra.
Do đó, theo VCCI, việc quy định thời hạn có hiệu lực của giấy phép chỉ khiến các doanh nghiệp tốn nhiều thời gian, lãng phí chi phí không cần thiết. VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát tổng thể các quy định trong phạm vi quản lý và bổ sung phương án cắt giảm theo hướng bỏ các quy định về thời hạn có hiệu lực của giấy phép, như nội dung của Nghị định 26/2019/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Thủy sản.