Giống lúa OM29 là giống triển vọng được Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long đề xuất đến nông dân, doanh nghiệp. Ảnh: Thu Hiền/TTXVN
Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường xuất khẩu cần triển khai giải pháp đồng bộ từ nghiên cứu giống lúa, cải thiện hạ tầng đến đẩy mạnh chế biến và thương mại. Các chuyên gia và doanh nghiệp đã đề xuất những giải pháp giúp ngành lúa gạo phát triển bền vững, bảo vệ lợi ích của người sản xuất và tận dụng cơ hội từ thị trường quốc tế.
Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy:
Để nâng cao chất lượng, đáp ứng được thị trường xuất khẩu, theo tôi giống lúa phải là “con chip” trong mục tiêu xuất khẩu gạo. Việt Nam đang chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu. Mỗi thị trường xuất khẩu có những đặc tính riêng. Do đó, cần đánh giá, thống kê nhu cầu thị trường, trên cơ sở đó xác định cơ cấu giống lúa trên đồng ruộng. Như vậy, gạo Việt Nam mới giữ được thế mạnh trong xuất khẩu.
Để có “con chip” này phụ thuộc vào sự hợp tác của Bộ Nông nghiệp và Môi trường và Bộ Ngoại giao. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo rất rõ. Bộ Ngoại giao sẽ nắm bắt, phổ biến thông tin về nhu cầu, thị hiếu và các quy định thị trường cũng như chính sách ngoại giao kinh tế để thông tin tới các hiệp hội, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh mặt hàng lúa gạo. Bộ nghiên cứu chính sách của các nước, tham mưu các giải pháp, hoạt động ngoại giao kinh tế nhằm tăng cường và tạo điều kiện cho xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam sang thị trường quốc tế.
Ở góc độ sản xuất hàng hóa, kho trữ là yếu tốt then chốt trong chuỗi cung ứng. Doanh nghiệp phải đủ năng lực về nguồn lực tài chính, cơ sở hạ tầng (kho chứa, nhà máy sấy, xay xát)… khi tham gia vào chuỗi này. Các doanh nghiệp xuất khẩu phải có vùng nguyên liệu, kho lưu trữ, đứng trong chuỗi sản xuất. Nếu không đáp ứng được thì bản thân họ sẽ không nắm bắt được thời cơ ký hợp đồng.
Hiện nhiều doanh nghiệp vẫn không muốn đầu tư cho nông dân, dẫn đến tình trạng không dám ký hợp đồng, hoặc có ký thì đi thu gom. Điều này sẽ dẫn đến chất lượng gạo kém, không truy xuất được nguồn gốc (nếu có vấn đề), ảnh hưởng uy tín chung của lúa gạo Việt Nam.
Khi kho trữ đủ, giá lúa xuống thấp thì thu mua vào. Khi thị trường biến động tăng sẽ là cơ sở, cơ hội để đưa ra thị trường. Tuy nhiên, khi thị trường biến động giảm thì vai trò của Ngân hàng Nhà nước ở khâu chính sách ưu đãi lãi suất cho các doanh nghiệp có khả năng dự trữ này rất quan trọng.
Bên cạnh đó, cơ quan quản lý cần lành mạnh hóa, công bằng minh bạch trong xuất khẩu, tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Cần có sự rà soát, đánh giá doanh nghiệp xuất khẩu để bảo vệ doanh nghiệp có sự đầu tư bài bản, có sự gắn bó với nông dân, địa phương trong chuỗi sản xuất. Nếu để còn các doanh nghiệp chỉ tham gia khâu thương mại, chỉ tìm cách mua hàng bán có lãi, đi “buôn chuyến” thì không thể xuất khẩu lúa gạo bền vững. Việc rà soát sẽ là cái “sàng” để lọc các doanh nghiệp đủ điều kiện trong xuất khẩu.
Trong xây dựng vùng nguyên liệu, nông dân cũng phải có kiến thức và kỷ luật. Vai trò của hợp tác xã là cùng thành viên thực hiện đúng theo quy trình sản xuất. Doanh nghiệp sẽ chuyển giao khoa học kỹ thuật. Như vậy, vùng nguyên liệu sẽ đạt chất lượng và ổn định.
Ông Trương Sỹ Bá, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Tân Long:
Bài toán cốt lõi của ngành lúa gạo Việt Nam vẫn là sự hỗ trợ từ Nhà nước đối với doanh nghiệp trong việc thu mua và dự trữ lúa. Việc này giúp các doanh nghiệp có thể mua lúa từ nông dân với lãi suất hợp lý khi đến mùa vụ. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều doanh nghiệp thu mua dự trữ đang lo ngại vì lãi suất cao và rủi ro thị trường khiến họ không dám mua số lượng lớn.
Với mỗi doanh nghiệp thì tham gia vào ngành cần phải đầu tư vào trang thiết bị và cơ sở hạ tầng như máy sấy và kho trữ. Chính vì vậy, một lãi suất hợp lý là yếu tố quan trọng để khuyến khích doanh nghiệp dám dự trữ và thu mua lúa từ nông dân, qua đó giúp kiềm chế sự giảm giá lúa gạo.
Thực tế, không ít doanh nghiệp thiếu kho bãi, hoặc kho trữ không hiện đại và thiếu vốn để mua lúa. Ngay cả khi doanh nghiệp có đủ khả năng tài chính, lãi suất cao cũng là một rào cản lớn, khiến họ không dám mua nhiều. Khi doanh nghiệp có đủ vốn, kho trữ, việc thu mua sẽ được thực hiện liên tục. Doanh nghiệp cũng đã sẵn sàng nguồn hàng khi thị trường khởi sắc trở lại.
Để phát triển ngành hàng lúa gạo bền vững, doanh nghiệp phải tham gia vào toàn bộ chuỗi giá trị, từ cánh đồng, nông dân, hợp tác xã đến kho trữ và nhà máy chế biến hiện đại. Doanh nghiệp chủ động trong việc ký hợp đồng và đặt hàng với nông dân, hợp tác xã ngay từ đầu vụ. Điều này giúp nông dân không phải lo lắng về việc tìm đầu ra cho sản phẩm khi vào mùa thu hoạch, đồng thời tránh được tình trạng phải bán lúa với giá thấp do thiếu sự hỗ trợ và liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp.
Ông Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long:
Giống lúa OM29 là giống lúa được các nông dân, doanh nghiệp, nhà quản lý đánh giá xếp hạng cao nhất trong 22 giống lúa. Ảnh: Thu Hiền/TTXVN
Trước đây, việc nghiên cứu giống lúa chủ yếu tập trung vào năng suất và khả năng chống chịu sâu bệnh, nhưng khi thì bệnh này, khi thì bệnh kia, cùng với yêu cầu thích ứng hạn mặn. Điều này khiến công tác nghiên cứu phải chạy đua để đối phó với từng loại bệnh khác nhau.
Hiện nay, chương trình nghiên cứu giống lúa mang tính tổng thể hơn, với mục tiêu chính là phát triển giống lúa đáp ứng nhu cầu của các phân khúc thị trường, đồng thời chủ động trong sản xuất và tiêu thụ. Các giống lúa phải đạt được các tiêu chí tổng thể hơn như: kháng bệnh, chịu hạn mặn và phù hợp với điều kiện khí hậu thay đổi.
Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long tiến hành rà soát các giống lúa đang phổ biến và đạt hiệu quả cao, như OM 18 và OM 5451 (mỗi giống đang sản xuất khoảng 1 triệu ha mỗi năm). Tuy nhiên, các giống này bắt đầu gặp phải các vấn đề về sâu bệnh. Vì vậy, viện đang nghiên cứu cải tiến các giống này để tăng khả năng chống chịu bệnh và thích ứng tốt hơn với điều kiện khắc nghiệt như hạn mặn. Điều này giúp nâng cao chất lượng gạo trong xuất khẩu cũng như hiệu quả sản xuất của nông dân.
Song song với đó, viện cũng tập trung vào việc phát triển các giống mới, đặc biệt là các giống lúa thiếu trên thị trường, như các giống lúa ST có chất lượng gạo ngon, cũng như các giống đặc thù như nếp và gạo Nhật. Chẳng hạn, giống nếp có thời gian sinh trưởng dài, nên cần nghiên cứu và lai tạo các giống ngắn ngày để phù hợp với điều kiện sản xuất. Một xu hướng khác là phát triển các giống lúa có giá trị dinh dưỡng đặc biệt, chẳng hạn như giống có chỉ số đường huyết thấp.
Tất cả các giống lúa nghiên cứu đều được phát triển trong bối cảnh thích ứng với biến đổi khí hậu, đặc biệt là khả năng chịu hạn, mặn và sâu bệnh, cùng với mục tiêu đảm bảo hiệu quả kinh tế bền vững cho người trồng lúa.
Bài 3: Chủ động ứng phó với đà giảm giá