Để hiểu rõ hơn quan điểm này, Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã có cuộc trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê.
Đại dịch COVID-19 đang định hình lại hướng đi toàn cầu. Điều này thúc đẩy sự ngăn chặn lẫn nhau; cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế lớn. Ông có thể cho biết, các quốc gia đã thay đổi quy định về thu hút đầu tư nước ngoài như thế nào?
Đại dịch COVID-19 đang định hình lại hướng đi của dư luận toàn cầu, dẫn đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và bài ngoại. Điều này thúc đẩy sự ngăn chặn lẫn nhau; cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế lớn ngày càng khốc liệt. Sau khi đại dịch bùng phát, xu hướng bảo hộ ngày càng gia tăng. Đặc biệt, chính phủ các nước đã khẩn trương đưa ra giải pháp để bảo vệ các doanh nghiệp có thể bị phá sản do dịch COVID-19 khỏi sự thâu tóm bởi nước ngoài.
Đối mặt với nguy cơ này, ngày 25/3/2020, Ủy ban Châu Âu (EU) công bố hướng dẫn mới quy định bổ sung về tiêu chuẩn sàng lọc đầu tư nước ngoài trong và sau đại dịch. Những hướng dẫn này không tạo ra luật mới, nhưng khuyến nghị mạnh mẽ các quốc gia thành viên EU thực thi nghiêm túc cơ chế sàng lọc đầu tư nước ngoài của quốc gia họ để bảo vệ những tài sản nhạy cảm khỏi bị nước ngoài thôn tính trong đại dịch.
Chẳng hạn, trước đại dịch, quy định về đầu tư nước ngoài ở Tây Ban Nha đã được tự do hóa, với một số ngoại lệ nhất định liên quan đến các lĩnh vực và giao dịch cụ thể cần có sự cho phép trước. Tuy nhiên, ngày 18/3/2020, Tây Ban Nha là quốc gia thành viên EU đầu tiên thắt chặt đáng kể các quy định về đầu tư nước ngoài.
Theo quy định mới, nhà đầu tư có trụ sở bên ngoài EU phải được chấp thuận trước mới được mua lại cổ phần từ 10% trở lên, hoặc quyền quản lý trong một công ty Tây Ban Nha trong phạm vi rất rộng của các ngành. Hơn nữa, khi nhà đầu tư nước ngoài chịu sự kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp của chính phủ nước ngoài, thì quy định về đầu tư nước ngoài chặt chẽ hơn sẽ áp dụng cho các khoản đầu tư trên tất cả các lĩnh vực.
Tại Pháp, ngày 28/4/2020, Pháp ra thông báo sẽ hạ thấp ngưỡng kiểm soát đối với việc mua lại cổ phần của các nhà đầu tư ngoài châu Âu. Điều này thể hiện một bước thay đổi đáng kể so với quy định trước ngày 1/4/2020 bằng cách thắt chặt hơn nữa ngưỡng kiểm soát ở mức 10% so với ngưỡng 25% đã được hạ xuống chỉ vài tuần trước đó. Sửa đổi này đưa ra trong bối cảnh Chính phủ Pháp công bố mục tiêu bảo vệ các công ty quốc gia trước nguy cơ bị nước ngoài thôn tính trong giai đoạn khủng hoảng bởi đại dịch COVID-19…
Theo ông, đại dịch COVID-19 liệu có dẫn đến thu hẹp đầu tư nước ngoài toàn cầu không? Và hậu quả sẽ như thế nào đối với thu hút FDI tại các nước đang phát triển, thưa ông?
Theo Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển, dòng vốn FDI toàn cầu ước giảm từ 30% đến 40% trong giai đoạn 2020-2021. Tất cả các lĩnh vực sẽ bị ảnh hưởng, nhưng FDI giảm mạnh và rõ ràng trong các lĩnh vực dịch vụ liên quan đến tiêu dùng như: hàng không, khách sạn, nhà hàng, vui chơi giải trí, cũng như các ngành sản xuất và lĩnh vực năng lượng. Sụt giảm FDI toàn cầu có liên quan rất chặt chẽ đến việc gián đoạn trong chuỗi cung ứng toàn cầu do hậu quả của đại dịch.
Nếu FDI toàn cầu bị thu hẹp trong một thời gian dài, hậu quả đối với các nước đang phát triển sẽ rất nặng nề và nghiêm trọng bởi các nước này có danh mục dòng vốn FDI đa dạng và lợi ích tiềm năng của dòng vốn này rất lớn. Dòng vốn FDI không chỉ thúc đẩy doanh thu xuất khẩu ở các nước đang phát triển mà còn tạo ra nhiều việc làm, tác động tích cực hơn đến phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất.
Hậu quả của đại dịch COVID-19 đến dòng vốn đầu tư toàn cầu phụ thuộc vào hoạt động kinh tế của những nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Cộng đồng châu Âu sẽ phục hồi nhanh hay chậm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Xin ông cho biết, những kết quả đạt được cũng như những bất cập còn tồn tại trong thu hút FDI thời gian qua?
Vốn FDI thực hiện bình quân giai đoạn 2016-2019 chiếm trên 23% trong tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội; tỷ trọng bình quân GDP của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2016-2019 chiếm 19,8% trong tổng GDP của toàn bộ nền kinh tế. Khu vực FDI thu hút gần 5 triệu lao động, chiếm 31,8% trong tổng số lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp và tạo ra lợi nhuận cao nhất chiếm tới trên 42% trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Hiệu quả đầu tư kinh doanh của khu vực FDI thể hiện qua các chỉ tiêu như hiệu suất sinh lợi trên tài sản và hiệu suất sinh lợi trên doanh thu thuần đều cao hơn khá nhiều so với khu vực kinh tế trong nước.
Tuy nhiên, theo tôi, trong hơn 30 năm qua kết quả thu hút FDI của nước ta còn một số bất cập như: thể chế, chính sách về đầu tư nước ngoài chưa theo kịp yêu cầu phát triển, chính sách ưu đãi còn dàn trải, thiếu nhất quán, không ổn định.
Bên cạnh đó, sự liên kết, tương tác với khu vực kinh tế trong nước thiếu chặt chẽ, hiệu ứng lan toả về năng suất và công nghệ hạn chế. Các dự án FDI chưa đóng góp nhiều vào việc gắn kết nền kinh tế trong nước với chuỗi cung ứng toàn cầu.
Hầu hết các dự án FDI là dự án 100% vốn nước ngoài, liên doanh giữa nước ngoài với doanh nghiệp trong nước không đáng kể; không đạt được mục đích chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản trị tiên tiến. Công nghiệp phụ trợ chưa phát triển nên sự tham gia của doanh nghiệp trong nước vào các dự án FDI còn yếu. Việc phân quyền cho các địa phương trong thu hút FDI có nhiều bất cập.
Theo tôi, trừ Nhật Bản, các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phần lớn đến từ các nước mới phát triển và có vị trí địa lý gần Việt Nam, hầu như không thấy vai trò và bóng dáng các nhà đầu tư đến từ các nước phát triển có công nghệ hàng đầu, tri thức và văn hoá kinh doanh tin cậy. Với hệ luỵ của đại dịch COVID-19 và chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, nhiều công ty Mỹ và Nhật muốn di chuyển nhà máy từ Trung Quốc sang các nước khác, nhưng tại Việt Nam cho thấy sự hiện diện rõ nét và “vươn lên” mạnh mẽ của các nhà đầu tư Trung Quốc.
Như ông nói, sự hiện diện rõ nét và “vươn lên” mạnh mẽ của các nhà đầu tư Trung Quốc. Vậy, ông có bình luận gì về vấn đề này?
Trong những năm gần đây, FDI đăng ký tại Việt Nam đến từ Trung Quốc tăng nhanh đáng kể về số dự án nhưng lại giảm về vốn đăng ký bình quân một dự án.
Vốn đăng ký bình quân một dự án FDI quá nhỏ thể hiện công nghệ dự án lạc hậu, giá rẻ, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu danh mục FDI của Trung Quốc đăng ký tại Việt Nam cho thấy nhiều dự án với quy mô vốn nhỏ nhằm trốn tránh đòn trừng phạt của Mỹ trong cuộc chiến Thương mại Mỹ -Trung và biến Việt Nam thành địa bàn “chung chuyển” hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc, không phải dự án sản xuất tại Việt Nam.
Từ năm 2018 đến nay, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng chuyển dịch rất đáng chú ý với mua bán và sáp nhập (M&A) ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và có tốc độ tăng nhanh; trong đó, vốn từ Trung Quốc và Hồng Kông (Trung Quốc) tăng mạnh. Việc nhà đầu tư nước ngoài ngày càng ưa chuộng hình thức M&A là điều dễ hiểu vì đầu tư vào Việt Nam bằng hình thức này nhanh hơn so với đầu tư trực tiếp thành lập pháp nhân mới.
Thưa ông, trước những cảnh báo về một số dự án FDI vào Việt Nam tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro, gây ô nhiễm môi trường… Theo ông, Việt Nam cần phải điều chỉnh những chiến lược, chính sách gì và ông có đề xuất giải pháp nào để nâng cao hiệu quả dòng vốn FDI vào Việt Nam trong thập kỷ tới?
Chuyên gia Nguyễn Bích Lâm: Chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài chỉ là bước đầu tiên hướng tới một chiến lược FDI thành công. Trong thập kỷ tới, thu hút FDI phải đặt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030, đặc biệt phải quy định rõ những ngành nào, lĩnh vực nào cần ưu tiên thu hút FDI trên nguyên tắc những ngành và lĩnh vực doanh nghiệp trong nước có khả năng làm được thì không kêu gọi đầu tư nước ngoài.
Nhìn nhận khủng hoảng do đại dịch gây ra là cơ hội để Chính phủ kiểm tra lại phương pháp thu hút và duy trì hiệu quả các dự án FDI phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá đất nước; đồng thời, tạo liên kết kinh tế giữa khu vực FDI và khu vực kinh tế trong nước. Để đạt được mục tiêu này, theo tôi, có ba lĩnh vực trọng tâm đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách cần có phương pháp tiếp cận mới:
Đó là Chính phủ khẩn trương đưa ra các giải pháp và phương thức hỗ trợ khu vực doanh nghiệp trong nước vượt qua khó khăn về tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường nhập khẩu nguyên vật liệu dùng cho sản xuất và hỗ trợ phí vận chuyển, lưu kho lưu bãi. Chính sách hỗ trợ của Chính phủ cần nhắm tới mục tiêu phát triển mối liên kết chặt chẽ giữa khu vực doanh nghiệp trong nước và khu vực doanh nghiệp FDI, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp trong nước.
Chính phủ nên sửa đổi quy định đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất để cộng đồng doanh nghiệp trong các khu này liên kết kinh tế, đặc biệt tạo dựng mối liên kết giữa khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước nhằm tạo dựng và phát triển công nghiệp phụ trợ trong nước.
Trong một thế giới đầy biến động do đại dịch gây ra, Chính phủ cần có giải pháp tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do đã ký với đối tác và sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế.
Mua bán và sáp nhập đang trở thành xu thế trong đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng về kinh tế, thương mại và đầu tư quốc tế, để tránh các ngành và lĩnh vực kinh tế trọng điểm bị các nhà đầu tư nước ngoài kiểm soát và thâu tóm hoặc núp bóng các nước khác, Chính phủ cần xác định ngưỡng cho phép nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ cổ phần tại các doanh nghiệp cổ phần hoá…
Chính phủ cần xác định cụ thể danh mục ngành, lĩnh vực cần thu hút đầu tư nước ngoài và ngành lĩnh vực chỉ các nhà đầu tư trong nước thực hiện. Cùng với đó là rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định và có chế tài để quản lý hiệu quả hoạt động của đầu tư nước ngoài trên địa bàn; xử lý nghiêm các dự án đã cấp phép nhưng không triển khai và các vấn đề khác có liên quan như: trốn và nợ thuế, sử dụng lao động Việt Nam và lao động nước ngoài, sử dụng đất, ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra, khẩn trương hoàn thiện và thực hiện nghiêm, hiệu quả thể chế chính sách quản lý, giám sát đầu tư nước ngoài phù hợp với quan hệ kinh tế mới, mô hình và phương thức kinh doanh mới, bảo vệ thị trường trong nước; đồng thời, tạo điều kiện cho khu vực trong nước phát triển phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế.
Xin cám ơn ông!