Chính quyền địa phương cần quy hoạch lại vùng nuôi cá lồng, khuyến cáo người dân di dời lồng bè đến khu vực an toàn hơn hoặc thu hoạch cá sớm trước mùa lũ.
Tiềm ẩn rủi ro
Nghề nuôi cá lồng luôn tiềm ẩn rủi ro lớn, người dân đứng trước nguy cơ mất trắng tài sản mỗi mùa mưa bão. Khi nước lũ thượng nguồn đổ về nhanh, mạnh, mang theo phù sa, rác thải và thay đổi đột ngột chất lượng nước, nhiệt độ. Điều này khiến cá bị sốc nước, ngạt khí và chết hàng loạt (sốc nước và thiếu Oxy). Bên cạnh đó, dòng chảy xiết cũng có thể làm hư hỏng, cuốn trôi lồng bè.
Bên cạnh đó việc thủy điện rút nước đột ngột để điều tiết hoặc phục vụ phát điện có thể khiến lồng bè bị mắc cạn. Nước rút quá nhanh chỉ trong vài chục phút làm cá chết ngạt trong bùn, người dân không kịp trở tay. Những thiệt hại do việc hạ mực nước đột ngột tại lòng hồ đã xảy ra nhiều lần và gây hậu quả nặng nề.
Tại xã Tam Thái, việc nước hồ thủy điện Khe Bố rút nhanh vào chiều 28/10 đã khiến nhiều hộ dân gần như trắng tay.
Ông Vi Văn Doan (48 tuổi, bản Cánh Tráp) là một trường hợp tiêu biểu. Chiều hôm đó, hơn 4 tạ cá đã đến kỳ xuất bán trong ba lồng bè của ông đã mắc cạn và chết chỉ trong ít phút.
"Hôm đó, hàng xóm gọi báo nước rút bất thường, tôi chạy ra thì thấy cá vùng vẫy, bùn đã lấp đến nửa lồng, sau đó thì chết. Nếu bán được thì lứa cá này mang về cho gia đình khoảng 40 triệu đồng", ông Doan buồn bã nói.
Chỉ trong khoảng 30 phút, khu vực đặt lồng cá sâu 1,3 m đã cạn trơ đáy, để lại nền bùn. Đây không phải lần đầu gia đình ông Doan thiệt hại vì mực nước hồ thủy điện Khe Bố giảm đột ngột.
Ông Lô Văn Lợi, 69 tuổi, bản Cánh Tráp, xã Tam Thái cũng mất trắng hơn 2 tạ cá do nước hồ rút đột ngột.
Cùng cảnh ngộ, ông Lô Văn Lợi (69 tuổi, bản Cánh Tráp) cũng mất trắng hơn 2 tạ cá do nước hồ rút đột ngột.
"Lúc ra kiểm tra thấy nước tụt bất thường, tôi gọi mọi người đến hỗ trợ. Nhưng chỉ khoảng 30 phút, nước đã cạn trơ đáy, cá nằm trong bùn không thở được. Hơn 2 tạ cá chết sạch, không cứu được con nào", ông Lợi nói.
Ông Lợi cho biết gia đình ông đã chuyển sang nghề nuôi cá lồng sau khi thủy điện Khe Bố tích nước hơn 10 năm trước làm ruộng rẫy bị ngập. Đối với ông, nghề này giúp có thu nhập ổn định hơn. Tuy nhiên, nước lên xuống thất thường khiến người dân rất lo sợ.
Ông Vi Văn Thành, Bí thư Chi bộ bản Cánh Tráp cho biết, đã có nhiều đợt thiệt hại cá lồng bè nghiêm trọng trên địa bàn. Những năm gần đây, nhiều hộ dân phải vay mượn ngân hàng, dồn hết vốn liếng cả năm trời để nuôi cá. Khi mưa lũ và xả lũ ập đến, công sức, tài sản trị giá hàng chục triệu đến hàng tỷ đồng có thể tan biến chỉ trong vài giờ đồng hồ. Tổng số cá chết của 4 hộ nuôi cá tại bản Cánh Tráp trong buổi chiều 28/10 lên đến gần 2 tấn, gây thiệt hại tài sản trị giá rất lớn chỉ trong vài giờ.
Giải pháp nào cho sinh kế vùng lòng hồ
Theo người dân nuôi cá vùng lòng hồ và chính quyền địa phương, sự bất cập lớn nhất hiện nay nằm ở vấn đề cảnh báo và hỗ trợ người dân. Nhiều người dân cho biết thông báo xả lũ, đặc biệt là việc hạ mực nước, thường quá gấp gáp hoặc không đến được kịp thời và đầy đủ đến từng hộ nuôi.
Ông Lô Văn Ngọc, một hộ thiệt hại hơn 3 tạ cá ở bản Cánh Tráp, xã Tam Thái bày tỏ: "Nếu do thiên tai thì chúng tôi phải chấp nhận, nhưng nước rút do thủy điện xả mà không báo trước thì quả thực không đáng. Công ty thủy điện chỉ cần thông báo sớm để chúng tôi kịp đưa lồng cá ra vùng sâu là có thể cứu vãn được".
Về phía Nhà máy Thủy điện Khe Bố, ông Nguyễn Văn Lưu - Giám đốc Nhà máy cho biết nhà máy hoạt động đúng quy trình và được phép xả xuống mức mực nước chết là 63 m. Theo quy định, mỗi lần xả chỉ cần thông báo cho khu vực hạ du, không bắt buộc phải thông tin cho vùng lòng hồ.
Giám đốc Nhà máy Thủy điện Khe Bố cũng cho rằng, việc người dân nuôi cá lồng trên lòng hồ chủ yếu mang tính tự phát, chưa đúng quy định và đã nhiều lần khảo sát, khuyến cáo chính quyền địa phương.
Trong khi đó, lãnh đạo các xã Tam Thái, Tương Dương đều khẳng định người dân chỉ cần đăng ký với địa phương khi nuôi cá, không có yêu cầu xin giấy phép riêng.
Để giảm thiểu thiệt hại cho người dân nuôi cá lồng vùng lòng hồ cần có các giải pháp linh hoạt và đồng bộ.
Ông Lô Dương Khánh - Chủ tịch UBND xã Tam Thái cho biết, địa phương đã hỗ trợ bước đầu cho mỗi hộ thiệt hại 2 triệu đồng. Tuy nhiên, mức hỗ trợ này chưa thấm vào đâu so với thiệt hại thực tế, đặc biệt với những hộ nuôi số lượng lớn. Về lâu dài xã cũng nghiên cứu lại để hướng dẫn cho bà con nuôi loại cá tràu (quả), trê phi, cá da trơn (loại cần ít oxy) để hạn chế rủi ro cho người dân.
Lãnh đạo xã Tam Thái Lô Dương Khánh cũng bày tỏ mong muốn: "Người dân không còn ruộng, không có rừng nên sinh kế chỉ trông vào lồng cá. Chúng tôi cũng đề xuất với tỉnh và nhà máy thủy điện cần có thông tin vận hành kịp thời cho người dân khi xả hay cắt giảm lũ để người dân chủ động dịch chuyển lồng bè, tránh tổn thất nặng nề. Các nhà máy thủy điện cần đảm bảo hài hòa giữa lợi ích kinh doanh và tính nhân văn, giữa doanh nghiệp và người dân, khi vận hành thủy điện liên hồ cần có sự đồng bộ, thông báo kịp thời đến người dân, cán bộ bản, xã thông qua tin nhắn, zalo để thông tin được đến nhanh nhất”.
Để giảm thiểu thiệt hại cho người dân nuôi cá lồng vùng lòng hồ cần có các giải pháp linh hoạt và đồng bộ. Về phía các nhà máy thủy điện cần có cơ chế thông báo xả/rút nước sớm hơn, chi tiết hơn về lưu lượng và thời gian cho chính quyền địa phương và người dân.
Chính quyền địa phương cũng cần quy hoạch lại vùng nuôi cá lồng, khuyến cáo người dân di dời lồng bè đến khu vực an toàn hơn hoặc thu hoạch cá sớm trước mùa lũ. Cùng với đó có chính sách hỗ trợ vốn vay ưu đãi và hướng dẫn kỹ thuật gia cố lồng bè, di chuyển cá lồng linh hoạt…
Thiệt hại do xả lũ được xem là thiệt hại do thiên tai nên người dân có thể được hỗ trợ theo quy định (như Nghị định số 02/2017/NĐ-CP của Chính phủ về cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh), nhưng hiện nay quy trình còn chậm, mức hỗ trợ chưa tương ứng so với thiệt hại thực tế, đặc biệt là với những hộ dân có số lượng cá nuôi lớn.
Với hàng trăm lồng cá của người dân tại lòng hồ thủy điện Khe Bố, Bản Vẽ, việc tìm ra tiếng nói chung và cơ chế phối hợp giữa Nhà máy Thủy điện và người dân đang là yêu cầu cấp thiết để bảo vệ sinh kế quan trọng này.