Tăng trưởng nhanh nhưng chưa bền vững Ông Bùi Trường Thắng, Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho rằng, ngành công nghiệp thực phẩm Việt Nam đang duy trì mức tăng trưởng khá trong nhiều năm liền. Riêng nhóm hàng rau, củ quả đang có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ với kim ngạch xuất khẩu năm 2017 dự kiến sẽ đạt hơn 3 tỷ USD. Bên cạnh đó, một số ngành như sữa, đồ uống, bia rượu cũng được dự báo có thể tăng trưởng hơn 10% mỗi năm trong thời gian tới.
Tuy nhiên, công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn. Cụ thể, công nghiệp thực phẩm là ngành có áp lực cạnh tranh cao và ngày càng gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài. Quá trình hội nhập quốc tế giúp cắt giảm thuế quan xuất khẩu nhưng cũng đòi hỏi hàng hóa Việt Nam phải đáp ứng các yêu cầu khắt khe về mặt kỹ thuật, an toàn thực phẩm, hình thức mẫu mã…
Một thực tế khác là mặc dù Việt Nam có nguồn nguyên liệu rất dồi dào, sản lượng xuất khẩu lớn nhưng nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước không ổn định cả về chất lượng và số lượng. Nhiều doanh nghiệp chế biến thực phẩm phải nhập khẩu nguyên liệu. Điều này khiến doanh nghiệp không chủ động được số lượng, chất lượng và đơn giá sản phẩm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Dây chuyền sản xuất sữa tại Nhà máy sữa Vinamilk tại tỉnh Bình Dương. Ảnh: TTXVN |
Điển hình như ngành chế biến sữa, Việt Nam hiện phải nhập khẩu đến 60% nguyên liệu; tương tự ngành sản xuất bia Việt Nam cũng phải nhập khẩu tới 75% nguyên liệu hay trên 90% nguyên liệu của ngành chế biến dầu ăn phải nhập khẩu…
Nhiều chuyên gia cho rằng, thực phẩm sẽ là ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam nhưng hiện nay công nghiệp chế biến ngành hàng này còn manh mún, nhỏ lẻ, chưa tập trung tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao. Bà Nguyễn Mai Oanh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, nêu dẫn chứng: Việt Nam hiện chiếm 60% sản lượng hồ tiêu xuất khẩu của thế giới, riêng năm 2017, dự kiến có thể xuất khẩu hơn 200.000 tấn, tuy nhiên giá trị thu về lại rất thấp so với nhiều quốc gia khác vì chủ yếu xuất khẩu tiêu thô hoặc sơ chế mà chưa có sản phẩm chế biến sâu.
Theo bà Nguyễn Mai Oanh, một trong những sản phẩm tiêu có giá trị gia tăng cao nhất hiện nay là dầu nhựa tiêu. Đây cũng là sản phẩm giúp ngành chế biến tiêu Ấn Độ thu về nhiều lợi nhuận. Trong khi đó, Việt Nam chưa có bất kỳ nhà máy chế biến dầu nhựa tiêu nào và các doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư công nghệ để chế biến sản phẩm này. Điều này khiến ngành sản xuất, chế biến xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam khó giữ được mức độ tăng trưởng về mặt giá trị.
Không chỉ ở ngành hồ tiêu, ít đầu tư phát triển sản phẩm cũng là tình trạng chung của rất nhiều doanh nghiệp khác tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy, từ năm 2014 - 2017, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ chi 1,6% doanh thu cho việc nghiên cứu và phát triển; trong khi đó, doanh nghiệp ở các quốc gia trong khu vực như Indonesia, Philippin thì tỷ lệ cho nghiên cứu, phát triển đều chiếm trên 10% doanh thu. Ngay như Lào cũng chi hơn 14% doanh thu để đầu tư nghiên cứu, phát triển.
Ông Võ Thành Đô, Phó Cục trưởng Cục chế biến và phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) cho rằng, ngành nông nghiệp là ngành trực tiếp cung cấp nguyên liệu cho chế biến thực phẩm nhưng sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam chậm thay đổi, chưa thích nghi với các phương thức sản xuất mới để có thể cạnh tranh trên quy mô lớn trong dài hạn.
Đặc biệt, việc sử dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật đã được kiểm soát nhưng vẫn chưa đáp ứng các tiêu chuẩn được quốc tế công nhận. Diện tích sản xuất nông sản Việt Nam lớn nhưng diện tích thực hành sản xuất tốt, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm lại rất ít. Trong khi muốn sản xuất thực phẩm có chất lượng tốt phải bắt nguồn từ nguồn nguyên liệu có chất lượng tốt và an toàn.
Nâng cao chất lượng chuỗi giá trị thực phẩm Ông Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương, cho biết, thực phẩm được xác định là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động và phát triển kinh tế xã hội.
Vì vậy, để duy trì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nói chung và phát triển ngành công nghiệp này một cách bền vững, các cơ quan quản lý và doanh nghiệp phải phát triển thị trường thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng và phát triển thương hiệu, từng bước gia tăng giá trị xuất khẩu của thực phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới.
Chế biến dứa xuất khẩu tại Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (Ninh Bình). Ảnh: Huy Hùng/TTXVN |
Ông Nguyễn Song Hà, trợ lý Trưởng đại diện Tổ chức lương nông Liên hợp quốc (FAO) cho rằng, một trong những tiêu chí đầu tiên quyết định sự phát triển và bền vững của ngành chế biến thực phẩm là phải đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Điều này đòi hỏi phải có một quy trình kiểm soát chất lượng của toàn bộ chuỗi sản xuất từ người sản xuất nguyên liệu đến đơn vị vận chuyển, bảo quản, sơ chế, bán lẻ và cả người tiêu dùng. Vì vậy, muốn có sản phẩm thực phẩm an toàn, doanh nghiệp không thể thực hiện phương thức “mua đứt bán đoạn” mà phải tham gia xây dựng chuỗi sản xuất.
Theo dự báo của FAO, từ nay đến năm 2025, nhu cầu về thực phẩm của thế giới không có sự gia tăng đột biến do quy mô dân số thế giới vẫn ở mức ổn định. Tuy nhiên, cơ cấu nhu cầu sản phẩm thực phẩm sẽ thay đổi rõ nét từ việc tiêu dùng thực phẩm cơ bản sang sử dụng phân khúc thực phẩm có chất lượng cao. Vì vậy, doanh nghiệp chế biến thực phẩm không nhất thiết phải gia tăng công xuất, sản lượng mà cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
Ông Alexandre Bouchot, Tham tán Nông nghiệp Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam, cho rằng nâng cao chuỗi giá trị thực phẩm không chỉ là vấn đề riêng của Việt Nam, mà ngay cả tại các nước phát triển ở châu Âu cũng phải thường cải tiến thường xuyên.