Các doanh nghiệp trong nước cần chủ động tìm hiểu thông tin chi tiết về CPTPP để tận dụng cơ hội này và so sánh lợi thế với các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) khác. Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã có cuộc trao đổi với ông Trần Toàn Thắng, Trưởng Ban Dự báo kinh tế ngành và doanh nghiệp, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội Quốc gia (NICF), Bộ Kế hoạch và Đầu tư xung quanh nội dung này.
Việt Nam thực thi CPTPP trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động, vừa là động lực nhưng cũng đầy thách thức. Ông đánh giá về tác động của Hiệp định CPTPP đối với nền kinh tế Việt Nam trong năm 2019 như thế nào?
Việc Việt Nam sớm phê chuẩn CPTPP đã thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với đổi mới và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.
Việt Nam sẽ là quốc gia được hưởng lợi từ Hiệp định này, đặc biệt về kinh tế. Theo đó, chúng ta sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường tốt hơn với thuế suất thấp hơn và các thị trường Việt Nam chưa ký kết hiệp định tự do thương mại như: Canada, Mexico và Peru …
Bên cạnh đó, Hiệp định CPTTP sẽ góp phần vào việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn như: Nhật Bản, Australia, Canada, Mexico cũng như thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực mà Việt Nam đang có nhu cầu phát triển. CPTPP là hiệp định mở, trong tương lai có thể có thêm một số thành viên khác ví dụ: Hàn Quốc, Indonesia, Thái Lan và Philippines. Điều này giúp Việt Nam tiếp cận được một thị trường rộng lớn hơn, giúp tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế.
Nhìn chung về tổng thể CPTPP thực thi là có lợi cho Việt Nam. Chúng tôi dự báo tác động của CPTPP với Việt Nam vào khoảng 1,3% GDP. Nếu có những mở cửa lớn hơn về dịch vụ, thì mức tăng trưởng GDP tăng thêm có thể lên tới 2,1%. Những con số này chưa tính đến tác động từ đầu tư cũng như từ sức ép cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước.
Năm 2019 là năm đầu tiên thực thi CPTPP. Một số nhóm hàng sẽ bắt đầu có thuế quan bằng 0, một số nhóm bắt đầu lộ trình cắt giảm dài hơn. Tuy nhiên điều đáng nói là sự kỳ vọng. Nhà đầu tư nước ngoài có thể tăng kỳ vọng vào triển vọng kinh tế tốt hơn ở Việt Nam, doanh nghiệp nội địa thì cũng kỳ vọng vào tăng trưởng trong nước, tăng thì sẽ kéo theo cầu về hàng hoá tăng. Vì thế, việc kỳ vọng tăng sẽ kéo theo đầu tư tăng, theo đó có thể tạo ra những tiềm năng tốt cho tăng trưởng trong năm 2019.
Về xuất nhập khẩu, trong dự báo của NICF thì xuất khẩu tăng khoảng 4%, nhập khẩu khoảng dưới 3,8% tăng thêm. Có thể quan sát thấy năm 2018 thặng dư thương mại tăng đột biến ngoài những tác động từ các sự kiện khác (ví dụ Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung), đây cũng là một biểu hiện cho thấy tác động do kỳ vọng triển vọng tích cực về mặt vĩ mô. Triển vọng này sẽ tạo thuận lợi cho ổn định các chỉ số vĩ mô khác, bao gồm dự trữ ngoại hối, khả năng kiểm soát về tỷ giá...
Thưa ông, Hiệp định CPTPP có hiệu lực thì những ngành nào sẽ được hưởng lợi nhiều nhất ?
Theo kết quả tính toán của chúng tôi cho thấy trong CPTPP, dệt may và da giày là những ngành được đánh giá là có mức hưởng lợi cao nhất. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu ngành dệt may tăng thêm là từ 8,3-10,8% nhờ sức cạnh tranh về giá lớn hơn ở các thị trường mới trong CPTPP, trong khi vẫn giữ được thị trường chủ lực là Mỹ và EU.
Hai ngành dệt may và da giày không chỉ có lợi với CPTPP mà hầu hết các FTA mà Việt Nam đang tham gia. Việc CPTPP còn có tác động tích cực hơn cho nhóm ngành thâm dụng lao động, cải thiện năng lực cạnh tranh ở Việt Nam.
Một mặt năng lực cạnh tranh của những sản phẩm xuất chủ lực sẽ vẫn tiếp tục được cải thiện do nhóm ngành này tăng được tích luỹ, mặt khác cho thấy cơ hội cải thiện năng lực cạnh tranh của nhóm ngành thâm dụng vốn tiếp tục trở lên thánh thức hơn… Hơn nữa đó là triển vọng thu hút FDI công nghệ cao (sẽ dựa trên khả năng thâm dụng vốn). Nếu như lợi thế thâm dụng lao động tiếp tục được phát huy nhờ CPTPP thì việc thu hút FDI vào các ngành công nghệ cao cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Hầu hết các ngành công nghiệp nhẹ và thâm dụng lao động vẫn được hưởng lợi từ CPTPP. Hiệp định có thể tạo thêm mức tăng trưởng cho nhóm ngành này từ 4-5%, và mức tăng xuất khẩu có thể đạt thêm từ 8,7-9,6%.
Đối với khu vực FDI, có thể thấy tác động của CPTPP tới FDI vào Việt Nam xuất phát từ mở cửa đầu tư và giảm rủi ro đầu tư thông qua các cam kết về bảo hộ đầu tư; tự do hóa dịch vụ và tận dụng quy định về nguồn gốc xuất xứ trong thương mại…
Doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới có thể giúp Việt Nam thay đổi được công nghiệp phụ trợ. Nghĩa là bản thân FDI vào sẽ kéo theo các doanh nghiệp FDI ngành công nghiệp phụ trợ vào chứ không phải là đơn thuần lắp ráp. Đây là điểm tích cực từ CPTPP. Mặt khác, cán cân thương mại với Trung Quốc cũng có thể thay đổi, giảm dần được thâm hụt như hiện nay do các doanh nghiệp FDI sản xuất linh phụ kiện ngay tại Việt Nam. Do đó, có thể thấy yếu tố “nguồn gốc xuất xứ” sẽ ảnh hưởng và quyết định rất lớn tới khả năng hiện thực hóa lợi ích từ CPTPP.
Theo ông, những ngành nào sẽ bị ảnh hưởng khi Việt Nam thực thi Hiệp định CPTPP?
Do tác động của CPTPP, tốc độ tăng trưởng sản lượng của một số ngành có thể giảm, bao gồm chăn nuôi, chế biến thực phẩm và dịch vụ bảo hiểm. Ngành chăn nuôi là ngành bị ảnh hưởng nhiều từ CPTPP do sức cạnh tranh của ngành này rất yếu. Trong nông nghiệp, trừ mặt hàng gạo, thuế quan hiện hành của các nước với sản phẩm chăn nuôi không cao, vì thế, việc hạ thấp thuế quan trong CPTPP không tạo ra nhiều tác động xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng của ngành chế biến thực phẩm giảm đi ở mức 0,37%-0,52%. Tuy nhiên, vẫn giúp xuất khẩu tăng thêm thêm được 2,18% đến 2,35%.
Theo tôi, nếu tính cả các góc độ tăng trưởng của ngành, xuất nhập khẩu của ngành cộng với việc phẩn bổ lợi ích các nhóm trong xã hội thì ngành nông nghiệp có thể bị tác động nhiều nhất. Đặc biệt là ngành chăn nuôi, Việt Nam không có lợi thế và bị tác động. Theo đó, nếu ngành chăn nuôi bị ảnh hưởng thì đại bộ phận người thu nhập thấp sẽ bị ảnh hưởng.
Để thích nghi khi tham gia CPTTP, doanh nghiệp trong nước cần phải làm những gì?
CPTPP có hiệu lực, cạnh tranh sẽ diễn ra quyết liệt không chỉ ở thị trường các nước thành viên, mà ngay tại thị trường trong nước trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Vì vậy, doanh nghiệp phải chủ động tìm hiểu thông tin chi tiết về CPTPP để tận dụng và so sánh lợi thế với các FTA khác, doanh nghiệp FDI thì rất sát sườn tìm hiểu thông tin, tuy nhiên doanh nghiệp trong nước lại không có thói quen cập nhật thông tin mới. Vậy, doanh nghiệp Việt có tận dụng được cơ hội hay không thì phụ thuộc vào chính bản thân doanh nghiệp.
Ngoài ra, rủi ro từ CPTPP đối với doanh nghiệp Việt Nam là nếu không tận dụng được các cơ hội về xuất khẩu thì sẽ phải chịu tác động tiêu cực đối với sản xuất trong nước. Cạnh tranh với doanh nghiệp FDI về lao động. Mặt bằng chung của doanh nghiệp Việt vẫn còn thấp, sức cạnh tranh yếu. Ngoài ra, trong thời gian đầu thì việc thu nộp ngân sách thì doanh nghiệp nội sẽ chịu nhiều sức ép hơn khi mà thu thuế nhập khẩu giảm.
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy hiệu ứng “bát mỳ” có thể xảy ra khi có quá nhiều các FTA đan xen giữa các quốc gia làm giảm lợi ích thu được từ một FTA. Mặt khác, tỷ lệ sử dụng mức thuế ưu đãi thông qua FTA tại các quốc gia châu Á là khá thấp (trung bình 4 doanh nghiệp mới có 1 doanh nghiệp sử dụng được, ở Việt Nam là khoảng 37%) do quy mô doanh nghiệp nhỏ, cũng như thông tin giúp doanh nghiệp tiếp cận FTA chưa được thực hiện tốt. Việt Nam cần có một chiến lược tốt khắc phục điều này, CPTPP mới thực sự phát huy tác dụng.
Ngoài ra, khi CPTTP có hiệu lực, việc thu ngân sách cũng là vấn đề lớn. Có rất nhiều bài toán cho thấy, Việt Nam đang kỳ vọng vào việc lấy thuế nội địa để bù cho thuế nhập khẩu. Điều đó cho thấy về mặt xã hội sẽ tạo ra một thách thức lớn cho cả nhà nước và xã hội đó là đối tượng để được hưởng lợi có thể là các doanh nghiệp, nhưng đối tượng chịu thiệt lại là người dân. Vì nhìn từ góc độ thu chi ngân sách thì dường như người dân đang chịu tác động tiêu cực từ việc tăng thu, tăng nguồn thu để bù đắp cho phần thiếu hụt của thuế nhập khẩu.
Đây là một thách thức lớn mà Việt Nam cần phải giải quyết từ góc độ Chính phủ. Tôi cho rằng, không có một hiệp định nào có thể tạo ra được một sự công bằng cho tất cả các đối tượng trong xã hội.
Xin cám ơn ông!