Theo ông Trương Hùng Long, đây là một trong những mô hình quản lý nợ chủ đạo có liên hệ mật thiết với nhiệm vụ phân tích, dự báo và thực hiện các nghiệp vụ quản lý rủi ro danh mục nợ để đảm bảo an toàn nợ công, an ninh tài chính quốc gia.
Thông qua việc sử dụng hai mô hình quản lý này, đã xây dựng, nghiên cứu, phân tích các kịch bản quản lý nợ công đến năm 2030 để lựa chọn kịch bản phù hợp nhất với điều kiện hiện nay, cũng như phù hợp với yêu cầu quản lý nợ công.
Bên cạnh đó, các giải pháp để triển khai chiến lược nợ công đến năm 2030 được đưa ra có tính khả thi cao, đều có độ “đệm” trong phương án xử lý.
Theo Bộ Tài chính, tại kế hoạch tài chính ngân sách và vay trả nợ công 5 năm 2021-2025, Quốc hội phê duyệt mức trần nợ công không quá 60% GDP, nợ chính phủ không quá 50% GDP; ngưỡng cảnh báo an toàn nợ công khoảng 55% GDP và nợ chính phủ khoảng 45% GDP; chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước hàng năm không quá 25%.
Quốc hội đã phê duyệt tổng mức vay của Chính phủ giai đoạn 2021-2025 là 3,068 triệu tỷ đồng, bội chi ngân sách Nhà nước bình quân cả giai đoạn là 3,7% GDP. Theo đó, đến năm 2025 chỉ tiêu nợ công dự báo khoảng 45,3% GDP, nợ Chính phủ khoảng 41,6% GDP; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách Nhà nước cao nhất cả giai đoạn rơi vào năm 2021 là khoảng 24,8%
Theo Bộ Tài chính, sau giai đoạn 2016 - 2020, Việt Nam đã cải cách mạnh mẽ về quản lý nợ công, kiểm soát được nợ công, dư địa nợ công của Việt Nam tương đối rộng, qua đó chúng ta có được sự co giãn trong thực hiện chính sách quản lý nợ công. Nhờ đó, nợ công ở Việt Nam đến nay khoảng 43,7% GDP trong khi trần nợ công cho phép là 60%. Nếu cộng thêm việc thực hiện các gói kích cầu của Chính phủ thì nợ công cũng mới lên khoảng 45% GDP.
Trong bối cảnh đó, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ và trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 07-NQ/TW về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững để từng bước kiềm chế tốc độ tăng nợ công giai đoạn 2016-2020.
Do đó, việc huy động nợ công cho chương trình trong thời gian tới cần đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn an toàn, bền vững và ngân sách nhà nước, nợ công trong trung, dài hạn.