Chia sẻ về tiềm năng, những định hướng để sử dụng nguồn phụ phẩm này hiệu quả, phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam.
Xin Thứ trưởng cho biết tiềm năng sử dụng phế phụ phẩm trong các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp hiện nay?
Trong những năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã có bước chuyển mình mạnh mẽ. Sản xuất nông nghiệp bắt đầu gắn với tín hiệu thị trường, mang lại chất lượng và giá trị gia tăng cao cho người sản xuất.
Tuy nhiên, quá trình sản xuất nông nghiệp cũng tạo ra một lượng phế, phụ phẩm lớn, nếu quản lý không chặt chẽ sẽ gây ô nhiễm môi trường và lãng phí nguồn chất hữu cơ lớn.
Theo tổng hợp của ngành nông nghiệp, hàng năm có khoảng 160 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp; trong đó có khoảng 90 triệu tấn phụ phẩm sau thu hoạch từ cây trồng, từ quá trình chế biến nông sản của ngành trồng trọt (chiếm 56,2%); 62 triệu tấn phân gia súc, gia cầm từ ngành chăn nuôi (chiếm 38,7%); 6 triệu tấn từ ngành lâm nghiệp (chiếm 3,7%) và khoảng gần 1 triệu tấn từ ngành thủy sản (0,6%). Đây sẽ là nguồn nguyên liệu lớn tạo giá trị cho ngành nông nghiệp nếu chúng ta tận dụng tốt phụ phẩm này, đưa nó trở thành nguồn tài nguyên tái tạo.
Vậy, nguồn phụ phẩm trong nông nghiệp được sử dụng thế nào, đã thực sự trở thành nguồn tài nguyên tái tạo chưa?
Trước sự phát triển của khoa học công nghệ và thị trường, hiện nhiều phế phụ phẩm trong nông nghiệp đã được các doanh nghiệp, trang trại, nông dân tận dụng lại, đưa nó trở thành nguồn nguyên liệu đầu vào quan trọng cho sản xuất nông nghiệp hay nhiều lĩnh vực khác.
Điển hình trong lĩnh vực trồng trọt, các phụ phẩm đã được dùng sản xuất viên nén, cồn công nghiệp, phát điện sinh khối, làm đệm lót sinh học chăn nuôi, phân hữu cơ… Hay các chất thải chăn nuôi được quản lý bằng nhiều cách, bao gồm ủ phân, sử lý bằng sản phẩm vi sinh vật, công trình khí sinh học.
Bột thịt xương, bột thịt, bột gia cầm, bột lông vũ và mỡ động vật là các sản phẩm chính của ngành chế biến, các phụ phẩm giết mổ cũng bắt đầu được tận dụng để sản xuất thức ăn chăn nuôi… Đặc biệt trong lĩnh vực thủy sản, 90% phụ phẩm chế biến thủy sản đã được thu gom, chế biến. Từ phụ phẩm các doanh nghiệp đã tạo ra các sản phẩm rất có giá trị như collagen hay một số thực phẩm ăn liền... Để đáp ứng nhu cầu thị trường, nhiều phụ phẩm đã được tái tạo thành sản phẩm có giá trị.
Tuy nhiên có thể thấy, nguồn phế phụ phẩm nông nghiệp hiện nay vẫn còn lãng phí rất lớn, chưa tạo ra những sản phẩm giá trị gia tăng cao và chưa xây dựng được thương hiệu có uy tín trên thị trường toàn cầu.
Như trong lĩnh vực trồng trọt, phụ phẩm từ các cây trồng chính như lúa, ngô, mía, rau các loại có thể cung cấp tương đương với khoảng 43 triệu tấn phân hữu cơ, 1,8 triệu tấn đạm urê, 1,6 triệu tấn supe lân đơn và 2,2 triệu tấn kali sulfat. Đây là con số rất lớn mà chúng ta vẫn để còn lãng phí.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, mới chỉ tận dụng được 23% chất thải để sản xuất phân bón hữu cơ, còn lại đang bị bỏ phí, chưa được sử dụng để cung cấp nguyên liệu đầu vào cho trồng trọt, chăn nuôi theo chuỗi liên kết tuần hoàn.
Vấn đề này cũng đang đặt ra cần có những cơ chế khuyến kích cũng như giải pháp thúc đẩy liên kết giữa các cơ sở chăn nuôi và trồng trọt để tạo quy trình khép kín, sử dụng hiệu quả phụ phẩm trong nông nghiệp.
Hiện nay đã có nhiều mô hình sử dụng phụ phẩm nông nghiệp như nguồn tài nguyên tái tạo thực sự, Thứ trưởng chia sẻ thêm về giá trị thu được từ các mô hình này?
Từ thực tiễn sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản của người nông dân, hợp tác xã và các doanh nghiệp đã có nhiều mô hình rất hay áp dụng nguyên lý kinh tế tuần hoàn gắn với tăng trưởng xanh, sử dụng phụ phẩm trong nông, lâm, thuỷ sản là nguồn tài nguyên tái tạo.
Chẳng hạn, một số hợp tác xã và hộ nông dân đã xử lý rơm rạ tại đồng ruộng bằng chế phẩm sinh học để dùng làm phân bón thay vì mua phân NPK. Nông dân giữ lại rơm rạ không đốt, dùng sản phẩm sinh học xử lý, thậm chí không cần thời gian cách ly mà vẫn ngăn chặn được hiện tượng ngộ độc hữu cơ do rơm rạ gây ra, giảm được lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật cho cây lúa…
Thị trường thu gom, đóng gói, vận chuyển và buôn bán rơm lúa ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long ngày càng phát triển. Vụ Đông Xuân năm 2021, giá bán rơm khoảng từ 55.000-75.000 đồng trên 1.000 m2 ruộng, tương đương 400 đồng/kg. Như vậy, ngoài thu lúa, nông dân có thể thu thêm bình quân khoảng trên 500.000 đồng/ha rơm nếu đem bán.
Trong lĩnh vực thủy sản, có nhiều công ty chế biến phụ phẩm thành mặt hàng có giá trị cao. Điển hình như Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn, Công ty cổ phần Việt Nam Food (VNF), Công ty cổ phần Sao Mai… đã đầu tư công nghệ hiện đại chế biến từ phụ phẩm thủy sản thành bột cá - nguyên liệu cho thức ăn chăn nuôi, collagen và gelatin từ da cá tra, snack da cá tra, dầu ăn từ mỡ cá tra, đạm thủy phân từ cá tra…
Theo đánh giá, việc chế biến phụ phẩm thủy sản mới đạt khoảng 275 triệu USD năm 2020. Nếu khai thác hết nguồn phụ phẩm gần 1 triệu tấn của ngành thủy sản bằng các công nghệ cao thì có thể thu về từ 4-5 tỷ USD/năm. Đây là nguồn giá trị rất lớn cần thúc đẩy thời gian tới.
Bên cạnh giá trị kinh tế, Thứ trưởng đánh giá thế nào về hiệu quả môi trường nếu như nguồn phế phụ phẩm nông nghiệp được tái sử dụng?
Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, chúng ta mới chỉ chú trọng đến tăng năng suất, sản lượng, chưa quan tâm nhiều đến lượng dư thừa đầu vào của quá trình sản xuất. Việc lạm dụng phân bón vô cơ, thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt và gia tăng chất thải từ chăn nuôi đang đe dọa chất lượng môi trường.
Nông nghiệp cũng là một trong những tác nhân gây nên biến đổi khí hậu do phát thải khí nhà kính. Theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng lượng khí thải từ sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng trên 15% tổng lượng phát thải; lượng phát thải dự kiến nếu không có biện pháp can thiệp sẽ lên tới khoảng 120 triệu tấn CO2 vào năm 2030.
Trước những thách thức về ô nhiễm môi trường, thâm dụng tài nguyên từ sản xuất nông nghiệp, tương lai nền nông nghiệp Việt Nam cần dựa vào tri thức và công nghệ để phát triển nông nghiệp tuần hoàn. Việc này đã và đang trở thành xu hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới.
Bên cạnh đó, hiện nay Việt Nam đã tham gia các hiệp định thương mại toàn cầu; hầu hết các hiệp định này đều quy định về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, tuân thủ các tiêu chuẩn phát thải, chất thải, khí thải. Việt Nam đã có cam kết mạnh mẽ tại Hội nghị COP26 với mức đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Đây sẽ là tiền đề để thúc đẩy nền nông nghiệp Việt Nam tăng tốc chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp tuần hoàn, hướng đến nền nông nghiệp tăng trưởng xanh, hệ thống lương thực, thực phẩm an toàn, phát thải thấp.
Thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có giải pháp gì để tận dụng tốt nguồn nguyên liệu tái tạo này?
Trước xu thế phát triển kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ và nhu cầu sản xuất, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 109/2018/NĐ-CP nông nghiệp hữu cơ. Đến nay, Nghị định này đã mang lại kết quả khá tốt.
Năm 2018, khi Nghị định mới ban hành, sản xuất nông nghiệp hữu cơ mới khoảng 70.000 ha nhưng đến nay đã có trên 176.000 ha. Hàng năm, các doanh nghiệp cũng chế biến và xuất khẩu các sản phẩm hữu cơ đạt giá trị khoảng 300 triệu USD.
Tuy nhiên, thực tế cũng đặt ra nhiều thách thức với nông nghiệp hữu cơ thời gian tới trong quản lý, thị trường, xúc tiến thương mại…
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tổ chức hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Nghị định 109 và triển khai Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030. Đồng thời, có các cuộc hội thảo để làm rõ hơn các khái niệm nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp sinh thái, tăng trưởng xanh… giúp nông dân có thể hiểu và chuyển đổi tư duy trong quá trình thực hiện chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp.
Xin cảm ơn Thứ trưởng!