Cơ hội, thách thức đan xen
Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực từ ngày 1/8/2020 đã đem lại nhiều tích cực cho doanh nghiệp Việt. Theo thống kê mới nhất của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong năm đầu tiên thực thi Hiệp định, các cơ quan, tổ chức được uỷ quyển cấp C/O mẫu EUR.1 đã cấp khoảng 207.682 chứng nhận C/O mẫu EUR.1 với kim ngạch đạt khoảng 7,71 tỷ USD đi 27 nước EU. Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa sang EU còn thực hiện tự chứng nhận xuất xứ cho 6.115 lô hàng được hưởng ưu đãi thuế quan theo EVFTA.
Đáng chú ý, cơ hội đang dần mở ra khi bức tranh kinh tế toàn cầu xuất hiện nhiều điểm sáng sau một thời gian sụt giảm bởi tác động nghiêm trọng của dịch bệnh. Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An phân tích, từ phía thị trường EU, nhiều chỉ số kinh tế bắt đầu phục hồi tích cực, nhu cầu nhập khẩu và tiêu thụ hàng hoá có xu hướng gia tăng. GDP của EU quý 2/2021 tăng 13,7% so với cùng kỳ năm 2020 và tăng 2% so với quý trước. Ủy ban châu Âu (EC) dự báo, GDP của EU dự kiến sẽ tăng trưởng 4,8% trong năm 2021 và 4,5% trong năm 2022.
“Thế giới đang trải qua những biến động nhanh chóng và sâu sắc chưa từng có dưới tác động của đại dịch COVID-19. Quá trình chuyển dịch kinh tế toàn cầu tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ, đòi hỏi Việt Nam – một nền kinh tế có độ mở cao, phải nhanh chóng thích ứng, chủ động tham gia vào quá trình tái cấu trúc chuỗi cung ứng mới, trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu mới đang được hình thành”, Thứ trưởng Đặng Hoàng An nhấn mạnh.
Một số chuyên gia kinh tế nhận định, trước bối cảnh kinh tế phục hồi, cùng sự nổi lên của những xu hướng thương mại, đầu tư mới, Hiệp định EVFTA sẽ tạo điều kiện thuận lợi, khả năng cạnh tranh để Việt Nam tham gia vào quá trình tái cấu trúc chuỗi cung ứng mới với các đối tác EU.
Đồng thời, đây là cơ hội để Việt Nam cơ cấu lại nền kinh tế theo xu hướng mới, hướng đến kinh tế số và kinh tế xanh, thân thiện môi trường, chuyển đổi sang công nghệ mới tiêu chuẩn cao hơn, giúp hàng hóa Việt Nam có thêm ưu thế về chất lượng, đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật ngày càng cao từ thị trường EU.
Tuy nhiên, thực tế, để doanh nghiệp đáp ứng được những yêu cầu khắt khe từ đối tác là điều không hề dễ dàng. Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro) là 1 doanh nghiệp xuất nhập khẩu lớn, mỗi năm, Hapro xuất khẩu trên 100 triệu USD vào thị trường trên 80 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đối với Hapro, từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, các giao dịch rất thuận lợi nhờ những ưu đãi về thuế quan. Điều này giúp hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh hơn tại thị trường châu Âu. Kim ngạch xuất khẩu ở khu vực này đã tăng lên rõ rệt.
Ông Lê Anh Tuấn, Phó Tổng giám đốc Hapro cho biết, trong điều kiện bình thường, trao đổi thương mại giữa Việt Nam-EU mang lại hiệu quả kinh tế rất tốt, song dịch bệnh đã gây ra tác động nhiều phía. Gần đây nhất là tác động của đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, trong đó có vận tải, cước vận tải đã tăng lên rất nhiều lần. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khăn như: Nguồn cung lao động không đảm bảo, giãn cách xã hội, sản xuất “3 tại chỗ”… Tất các các yếu tố này tác động tới vấn đề cung ứng, xuất nhập khẩu hàng hoá.
Đáng chú ý, hiện nay Việt Nam và một số nước lại đang rơi vào tình trạng chi phí lao động, chi phí sản xuất đều cao dẫn tới giá thành sản phẩm cao, trong khi nhu cầu bạn hàng tại các thị trường lại khá ít.
“Trong xuất khẩu quan trọng nhất vẫn là tìm kiếm khách hàng ở thị trường nước ngoài. Đó là điều nhiều doanh nghiệp không thực hiện được, nhất là trong vòng 2 năm gần đây, doanh nghiệp không thể có những chuyến công tác nước ngoài, xúc tiến thương mại tại các hội chợ quốc tế. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của các đại sứ, đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài đã tạo điều kiện giúp đỡ Hapro trong các vấn đề kết nối với bạn hàng, với khách hàng và tìm kiếm khách hàng mới”, ông Lê Anh Tuấn cho hay.
Doanh nghiệp phải chuẩn bị hành trang
Khi Hiệp định EVFTA ra đời, các doanh nghiệp thường ví đó là Chính phủ đã xây dựng một “con đường cao tốc” cho DN Việt Nam đến với thị trường châu Âu. Qua sự ví von đó tưởng rằng Hiệp định EVFTA rất thuận lợi nhưng thực tế EVFTA không thuận lợi với tất cả các doanh nghiệp và với tất cả hàng hoá.
Ông Lê Anh Tuấn nhấn mạnh: "Muốn đi lên đường cao tốc, doanh nghiệp không thể dùng phương tiện thô sơ và hàng hoá phải đảm bảo “visa” để được xâm nhập vào thị trường EU. Nói cách khác là doan nghiệp phải chuẩn bị hành trang cho mình, đó chính là hàng hoá phải đảm bảo chất lượng để xâm nhập thị trường".
Đại diện Hapro kiến nghị, doanh nghiệp mong muốn nhiều nhất là được tháo gỡ về mặt hành chính, nhất là trong lưu thông, đi lại. Làm sao để thực thi quy định thống nhất, đặc biệt trong lưu thông giúp di chuyển dễ dàng từ địa điểm này sang địa điểm khác.
"Gần đây, Hapro đã xuống Nam Định để lo xuất khẩu một lô hàng quế. Tuy nhiên, dù nhân viên Hapro đã tiêm đủ 2 mũi vaccine, là người từ vùng xanh đi đến nhưng Nam Định vẫn yêu cầu cách ly, điều này rất bất lợi cho doanh nghiệp. Cần tháo gỡ những vấn đề như thế và cần đưa ra chính sách chung để áp dụng cho tất cả tỉnh, khu vực. Ví dụ, vùng xanh áp dụng chung 1 chính sách, vùng vàng áp dụng chung 1 chính sách… Có như vậy, doanh nghiệp mới có thể chủ động trong lưu thông, đi lại", ông Tuấn kiến nghị.
Ở tầm vĩ mô hơn, Thứ trưởng Đặng Hoàng An cho rằng, nhằm tận dụng hiệu quả EVFTA, đón đầu những cơ hội mới mở ra hậu đại dịch đòi hỏi nỗ lực rất lớn từ cả phía Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp. Việt Nam cần xây dựng các kịch bản phù hợp để thích ứng linh hoạt và hiệu quả với tình hình mới; khơi thông mọi nguồn lực cho phục hồi và phát triển kinh tế, đảm bảo chuỗi cung ứng.
Đồng thời tích cực hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, ổn định môi trường đầu tư kinh doanh, không để nền kinh tế bị lỡ nhịp trong xu hướng phục hồi kinh tế thế giới.
“Trước những thời cơ và thách thức đan xen giai đoạn bình thường mới, các doanh nghiệp cũng cần chủ động đổi mới chính mình, nâng cao năng lực nội tại, điều chỉnh chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp, nhanh chóng thích nghi với điều kiện mới, tham gia sâu vào tái cấu trúc chuỗi cung ứng và giá trị toàn cầu”, lãnh đạo Bộ Công Thương nói.