Thưa ông, theo ý kiến từ các thành viên Hiệp hội Phân bón Việt Nam, việc chuyển từ diện áp dụng thuế VAT 5% chuyển sang đối tượng không chịu thuế VAT nghe qua tưởng như sẽ có lợi cho doanh nghiệp và nông dân, nhưng thực ra không hẳn. Ông có thể phân tích cụ thể về vấn đề này?
Theo Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế, mặt hàng phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế VAT. Trước đây, sản xuất phân bón chịu thuế đầu vào chủ yếu là 10%, thuế đầu ra 5% nhưng thuế đầu vào được khấu trừ và thậm chí hoàn thuế nếu mức thuế này cao hơn thuế đầu ra. Như vậy, khi áp dụng quy định mới, doanh nghiệp không được khấu trừ thuế đầu vào, phải hạch toán vào chi phí. Điều này khiến cho chi phí sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp phân bón có khả năng tăng lên đáng kể, kéo theo giá bán cuối cùng cho nông dân.
Giá thành tăng, giá bán giữ nguyên khiến doanh nghiệp chịu thiệt. Chi phí tăng cao, các nhà đầu tư sẽ ngần ngại khi đầu tư sản xuất phân bón trong nước, đặc biệt các dự án có công nghệ cao do không được hoàn thuế VAT cho nhà xưởng, thiết bị, nguyên liệu vật tư. Điều này dẫn tới tình trạng ngành sản xuất phân bón trong nước mất động lực phát triển do sản phẩm trở nên kém cạnh tranh so với hàng nhập khẩu, và có nguy cơ bị hàng nhập khẩu đánh bại ngay trên sân nhà.
Cụ thể, trước năm 2014, có 6 dự án sau đi vào sản xuất, gồm: Đạm Phú Mỹ sản lượng 900.000 tấn/năm khánh thành tháng 12/2004; Đạm Cà Mau công suất 900.000 tấn/năm khánh thành tháng 10/2012; Nhà máy Đạm Hà Bắc nâng công suất lên 500.000 tấn/năm khánh thành tháng 6/2015 (xây dựng từ trước 2014); Nhà máy Đạm Ninh Bình công suất 560.000 tấn/năm đi vào hoạt động từ tháng 9/2012; Nhà máy DAP Hải Phòng công suất 330.000 tấn/năm khánh thành tháng 4/2009; Nhà máy DAP Lào Cai công suất 330.000 tấn/năm đi vào sản xuất từ tháng 7/2015 (xây dựng từ trước 2014). Tổng công suất giai đoạn này hơn 3,5 triệu tấn/năm.
Trong khi đó sau năm 2014, số dự án giảm sút hơn một nửa, trong khi tổng công suất giảm hơn 9 lần, chỉ còn Nhà máy NPK Hàn Việt của Tập đoàn Taekwang (đã trở thành công ty con của Công ty CP Phân bón Dầu khí Cà Mau từ tháng 4/2024) công suất 360.000 tấn/năm đi vào hoạt động 12/2017; Nhà máy NPK công nghệ hóa học của Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí - CTCP công suất 250.000 tấn/năm đi vào hoạt động từ năm 2018 (được xây dựng từ trước năm 2014); Nhà máy SOP Phú Mỹ khởi công xây dựng năm 2015 công suất SOP 20.000 tấn/năm. Tổng công suất giai đoạn này 380.000 tấn/năm.
Nhằm giảm thiểu khí phát thải nhà kính, góp phần vào mục tiêu đạt Net Zero vào năm 2050 như cam kết của Chính phủ tại COP26, các loại phân bón hiệu quả cao (Enhanced - Efficiency Fertilizers EEF) như phân đạm giải phóng chậm, có kiểm soát… là những sản phẩm được khuyến khích sử dụng. Tuy nhiên, Việt Nam hoàn toàn thiếu các mặt hàng này.
Thưa ông, ông đánh giá thế nào về sự thay đổi giá thành của mặt hàng phân bón trong những năm qua?
Giá phân bón trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giá nguyên liệu đầu vào, thí dụ khí, than, lưu huỳnh, ammoniac… giá cước vận tải, nhu cầu, thời tiết, giá cả nông sản, chính sách của các quốc gia về phân bón, đặc biệt là Trung Quốc.
Thời điểm Nga và Trung Quốc - hai nước xuất khẩu phân bón hàng đầu thế giới đều đưa ra các biện pháp hạn chế xuất khẩu để bảo đảm nhu cầu sử dụng trong nước đã ảnh hưởng lớn đến nguồn cung toàn cầu. Các biện pháp trừng phạt kinh tế của Liên minh châu Âu (EU) đối với Belarus cũng ảnh hưởng đến xuất khẩu phân bón kali vì Belarus chiếm tới 20% tổng lượng này trên toàn thế giới, hay các cuộc chiến tranh, xung đột trên thế giới, gần đây nhất là cuộc chiến Nga - Ukraine dẫn đến sự thiếu hụt nguồn cung, làm tăng giá nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trên toàn cầu.
Trong bối cảnh đó, năm 2014, Quốc hội ban hành Luật số 71 sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế (bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2015) quy định các mặt hàng phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp không phải chịu thuế giá trị gia tăng. Luật Thuế 71 và nhiều biến số đã ảnh hưởng khá lớn đến giá phân bón ở Việt Nam.
Về giá phân bón trên thế giới, trong khoảng 50 năm gần đây, đã tăng đột biến 2 lần vào năm 1973 - 1974 và năm 2007 - 2008. Từ đầu năm 2021 đến gần cuối năm 2022, thế giới chứng kiến đợt tăng giá thứ 3 có thể nói tăng “phi mã” của phân bón, giá phân bón, một trong những chi phí lớn nhất của nông dân, đã đạt mức cao nhất vào thời điểm đầu năm 2022.
Ở cương vị đại diện Hiệp hội Phân bón Việt Nam, theo ông cần kiến nghị về chính sách thuế như thế nào để mặt hàng phân bón được như mong muốn của người nông dân và chủ trương hỗ trợ nguyên liệu đầu vào quan trọng của ngành Nông nghiệp đạt mong đợi như kỳ vọng?
Nhằm tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, góp phần thúc đẩy bền vững của ngành sản xuất phân bón trong nước, Hiệp hội Phân bón Việt Nam tiếp tục kiến nghị đề xuất sửa đổi áp dụng mức thuế suất VAT 5% thay cho quy định hiện nay. Từ năm 2015, khi Luật Thuế 71 có hiệu lực, Hiệp hội đã kiên trì kiến nghị yêu cầu chuyển phân bón từ mặt hàng không chịu thuế sang chịu thuế VAT 5%
Nhìn chung bà con nông dân mong muốn có phân bón có chất lượng tốt, ổn định, giá cả phù hợp, hậu mãi tốt, có độ tin cậy cao, thương hiệu có uy tín, truyền thống. Phân bón trong nước có chất lượng tốt, ổn định và hậu mãi tốt, chịu trách nhiệm đến cùng về chất lượng sản phẩm liên quan đến năng suất, chất lượng của nông sản chắc chắn chiếm được cảm tình của bà con nông dân.
Lợi ích lớn nhất là bà con nông dân sẽ được hưởng lợi lâu dài khi doanh nghiệp phân bón trong nước sản xuất ổn định, có hiệu quả, từ đó có điều kiện hạ giá thành, giảm giá bán tới tay bà con nông dân. Nông dân mua phân bón sản xuất trong nước với giá thấp hơn do các nhà sản xuất nội địa được hoàn thuế VAT đầu vào và giá thành sản xuất giảm. Nông dân mua phân bón nhập khẩu với giá cao hơn do phân bón nhập khẩu phải chịu thuế VAT 5%. Tuy nhiên, sản lượng phân bón nhập khẩu thấp hơn phân bón sản xuất trong nước nên về tổng thể vẫn có lợi hơn cho người tiêu dùng.
Xin trân trọng cảm ơn ông!