Tuy nhiên, để thu hút được các nguồn lực vào nông nghiệp công nghệ cao cần sớm tháo gỡ những khó khăn về mặt cơ chế cũng như hiệu quả thực thi các chính sách hỗ trợ phát triển.
Quỹ đất eo hẹp
Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là nền nông nghiệp được ứng dụng hợp lý những công nghệ mới, tiên tiến nhằm tạo ra bước đột phá về năng suất, chất lượng nông sản. Mô hình này đồng nghĩa với việc tổ chức sản xuất nông nghiệp phải được thực hiện trên quy mô tương đối lớn và đầu tư tương xứng về mặt hạ tầng, công nghệ sản xuất. Tuy nhiên, trên thực tế, các doanh nghiệp muốn đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao vẫn gặp phải không ít thách thức từ việc tiếp cận đất đai, nguồn vốn, phát triển thị trường cho sản phẩm...
Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Viện Trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn cho rằng, điều kiện triển khai các dự án nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam hiện còn rất khó khăn. Cụ thể, sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cần có quỹ đất lớn, có vị trí thuận lợi cho lưu thông để đầu tư hạ tầng phục vụ sản xuất đồng bộ, nhưng đất nông nghiệp ở Việt Nam hiện bị phân tán thành nhiều thửa với diện tích rất nhỏ. Cả nước hiện có hơn 11 triệu ha đất sản xuất nông nghiệp với 78 triệu mảnh ruộng và trên 8,5 triệu nông hộ. Trong đó, có hơn 70% số hộ có diện tổng diện tích dưới 0,5 ha, chỉ có 3,4% số hộ có diện tích trên 3 ha.
Trong khi đó, quá trình tích tụ và tập trung đất đai còn khó khăn do quy định hạn điền và thời gian sử dụng đất còn nhiều bất cập. Những quy định trong Luật Đất đai hiện tại chưa tạo được động lực thu hút các nhà đầu tư, thủ tục thuê, chuyển nhượng đất nông nghiệp còn phiền hà. Có tới hơn 60% doanh nghiệp cho rằng tiếp cận đất đai là rào cản lớn nhất trong việc đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Ông Nguyễn Văn Thành, Chủ tịch Chi hội thương mại giống cây trồng Đông Nam Bộ chia sẻ, do yêu cầu về giao dịch, hầu hết các doanh nghiệp đều đặt trụ sở tại Tp. Hồ Chí Minh nhưng quỹ đất nông nghiệp của Tp. Hồ Chí Minh ngày càng eo hẹp và không đáp ứng được nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp phải thuê đất sản xuất ở các tỉnh khác nhưng không nắm được quỹ đất nông nghiệp cũng như quy hoạch sản xuất của các địa phương nên việc xác định địa điểm đầu tư sản xuất nông nghiệp thường tốn nhiều thời gian và công sức của doanh nghiệp.
Tương tự, ông Ưng Thế Lãm, Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã Làm Nông Minh Bạch 007 nhận định, mặc dù có rất nhiều chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ thế nhưng trên thực tế các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp trong nông nghiệp rất khó tìm được quỹ đất sản xuất phù hợp. Hầu hết các tỉnh hiện nay chưa có quy hoạch cụ thể các vùng nguyên liệu sản xuất, xuất khẩu. Thêm vào đó, đối với các sản phẩm cần chế biến sau thu hoạch thì các địa phương cũng chưa bố trí được địa điểm phù hợp.
Khó thu hút vốn đầu tư
Những khó khăn trong tiếp cận đất đai cũng là nguyên nhân khiến lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam khó thu hút đầu tư từ nước ngoài. Ông Nguyễn Văn Toản, Quyền Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, hiện nay cả nước có 25.339 dự án đầu tư vào nông nghiệp với tổng vốn đăng ký gần 319 tỷ USD. Trong đó, chỉ có 522 dự án đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực nông nghiệp với tổng lượng vốn gần 3.577 triệu USD, chiếm 1.22% trong tổng vốn đầu tư.
Nhật Bản là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn thứ 2 của Việt Nam, đồng thời là một trong những nhà đầu tư tích cực trong lĩnh vực nông nghiệp nhưng tính tới hiện tại giá trị đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào nông nghiệp ở Việt Nam mới đạt 240 triệu USD, tương đương với 0,04% tổng vốn đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam (57 tỷ USD).
Ngoài đất đai, thiếu hụt vốn cũng đang là rào cản lớn trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao vì đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao thường đòi hỏi nguồn vốn rất lớn để xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư sản xuất giống cây trồng vật nuôi, đào tạo nhân lực, tiêu thụ sản phẩm và nhập thiết bị nhưng hiện nay dòng vốn đầu tư trực tiếp vào nông nghiệp rất thấp. Số liệu của Tổng cục thống kê cho thấy, năm 2018 sản xuất nông nghiệp đóng góp 14,57% GDP nhưng đầu tư cho nông nghiệp chỉ đạt 5 -6 % GDP.
Nhiều chuyên gia nông nghiệp cho biết, để thành lâp và phát triển một trang trại nuôi quy mô trung bình ứng dụng công nghệ cao cần chi phí cao gấp 4 -5 lần so với trang trại nuôi truyền thống, còn đầu tư 1 ha nhà kính có đầy đủ hệ thống tưới nước, phun sương, bón phân tự động hóa theo công nghệ của Israel cần ít nhất từ 10 tỷ đồng. Với số tiền lớn như vậy, những doanh nghiệp nhỏ, người khởi nghiệp không đủ sức để đầu tư, trong khi đó các doanh nghiệp, nhà đầu tư lớn lựa chọn đầu tư vào các lĩnh vực khác thu hồi vốn nhanh và ít rủi ro hơn.
Ông Dương Hoa Xô, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tp. Hồ Chí Minh phân tích, vấn đề lớn của nông nghiệp Việt Nam là 80% nông dân sản xuất nhỏ lẻ, doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực nông nghiệp hiện nay chiếm chưa đến 10%, tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nói chung, nông nghiệp công nghệ cao là rất thấp.
Nguyên nhân chính khiến nhiều doanh nghiệp chưa mặn mà với việc đầu tư vào nông nghiệp nói chung, nông nghiệp công nghệ cao nói riêng là chính sách đất đai và tín dụng dành cho nông nghiệp chưa đủ thuyết phục. Theo đó, chính sách đất đai mặc dù đã được điều chỉnh nhưng trên thực tế doanh nghiệp muốn có quỹ đất đủ lớn để đầu tư sản xuất nông nghiệp rất khó, đụng đâu vướng đó.
Hơn nữa, doanh nghiệp cũng rất khó tiếp cận các nguồn vốn vay ngân hàng. Doanh nghiệp đầu tư một khoản lớn vào thuê đất, xây dựng hạ tầng sản xuất nhưng khi vay vốn ngân hàng thì những tài sản hình thành trên đất không được tính vào giá trị tài sản thế chấp. Điển hình là 1 ha đất đầu tư xây dựng nhà màng tốn từ 4 – 5 tỷ đồng nhưng khi muốn thế chấp vay vốn thì chỉ được định giá theo giá đất nông nghiệp thông thường khoảng vài trăm triệu/ha. Với khoản vay đó, doanh nghiệp không đủ để tổ chức sản xuất, thuê nhân công và tìm kiếm thị trường phân phối.
Một vấn đề khác được nhiều doanh nghiệp chia sẻ là Việt Nam hiện chưa xây dựng được thị trường nông sản. Cụ thể, công tác dự báo nhu cầu, thông tin thị trường chưa được thực hiện một cách hệ thống, doanh nghiệp sản xuất xong mới đi tìm đầu ra. Ngay cả những sản phẩm nông sản chất lượng cao, sản xuất hữu cơ cũng chưa có nơi tiêu thụ ổn định. Việc thiếu thông tin thị trường cũng khiến công tác quy hoạch, tổ chức sản xuất chưa khoa học, hợp lý khiến cung cầu thường xuyên vênh nhau, giá nông sản bấp bênh và thu nhập của người làm nông nghiệp thiếu ổn định.
Bài 2: Nâng cao hiệu quả thực thi chính sách