Cà phê Việt trước thách thức từ quy định chống mất rừng của EU

Với hơn 90% sản lượng phục vụ xuất khẩu, ngành cà phê Việt Nam đã hội nhập sâu với thị trường quốc tế; trong đó Liên minh châu Âu (EU) là thị trường tiêu thụ lớn nhất, chiếm khoảng 40% tổng lượng cà phê xuất khẩu.

Chú thích ảnh
Cà phê Đắk Lắk ngày càng khẳng định thương hiệu và vị thế trên thị trường quốc tế. Ảnh: Hoài Thu/ TTXVN

Tuy nhiên, đi cùng với cơ hội là các yêu cầu ngày càng khắt khe từ phía thị trường nhập khẩu, đặc biệt là về môi trường và phát triển bền vững. Quy định chống mất rừng (EUDR) của EU, dự kiến có hiệu lực từ cuối năm 2025, đang đặt ra thách thức lớn cho ngành hàng cà phê Việt Nam, đặc biệt là hơn 600.000 nông hộ – lực lượng chiếm tới 95% sản lượng.

EUDR yêu cầu các sản phẩm nông lâm sản; trong đó có cà phê nhập khẩu vào EU phải đảm bảo không gây mất rừng hoặc suy thoái rừng kể từ sau ngày 31/12/2020, tuân thủ đầy đủ pháp luật của nước sản xuất và có thể truy xuất nguồn gốc đến từng lô đất. Trong bối cảnh đó, vai trò của nông hộ trở nên đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, phần lớn các hộ trồng cà phê hiện nay vẫn còn đối mặt với nhiều rào cản trong việc đáp ứng yêu cầu của EUDR.

Khảo sát đầu năm 2025 do tổ chức Forest Trends và tổ chức Tavina thực hiện với 95 hộ ở các tỉnh trọng điểm cho thấy, hơn 50% số hộ không thực hiện ghi chép trong khâu thu hái. Trung bình mỗi hộ sở hữu từ 1,9–2,3 ha cà phê, thường chia thành 2–3 lô nhỏ, rải rác. Quy mô đất nhỏ lẻ và phân tán khiến việc truy xuất nguồn gốc đến từng lô đất trở nên phức tạp.

Một trong những trở ngại lớn là tính pháp lý về quyền sử dụng đất. Tỷ lệ hộ chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn cao, đặc biệt là trong nhóm đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiều diện tích đất được canh tác ổn định qua nhiều thế hệ nhưng chưa được chính quyền xác nhận, dẫn đến không thể chứng minh tính hợp pháp – điều kiện tiên quyết để thực hiện truy xuất. Mặc dù có đến 96% lô đất khảo sát đã được canh tác trước năm 2020 (đáp ứng điều kiện không gây mất rừng), nhưng nếu thiếu cơ sở pháp lý, các diện tích này vẫn không đủ điều kiện để đưa vào hồ sơ tuân thủ EUDR.

Theo ông Tô Xuân Phúc, Giám đốc Chương trình Chính sách, Tài chính và Thương mại rừng của tổ chức Forest Trends, nếu không có các cơ chế hỗ trợ cụ thể cho việc truy xuất ở cấp nông hộ, nhiều hộ sản xuất hiện nay có nguy cơ không đáp ứng được yêu cầu EUDR và bị loại khỏi chuỗi cung cà phê xuất khẩu vào EU. Ông Phúc cho rằng, khảo sát tuy chỉ phản ánh một phần nhỏ, chưa đại diện đầy đủ cho toàn bộ nông hộ trồng cà phê, nhưng thông tin thu thập được cho phép xác định một số khía cạnh quan trọng trong thực hành sản xuất hộ gia đình, từ đó soi chiếu với các yêu cầu của EUDR.

Cũng theo khảo sát, chỉ khoảng 10% hộ thực hiện phân tách luồng cung giữa các vườn, đây chủ yếu là các hộ tham gia mô hình cà phê bền vững có liên kết với doanh nghiệp. Điều này cho thấy tầm quan trọng của sự đồng hành từ các doanh nghiệp thu mua, chế biến và xuất khẩu, không chỉ là cầu nối thị trường mà còn cần coi nông dân là một phần không thể tách rời trong mô hình kinh doanh, từ đó đầu tư và hỗ trợ hộ trong công tác truy xuất và tuân thủ pháp luật.

Theo TS. Nguyễn Trung Kiên, Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ngay từ khi EUDR còn trong giai đoạn dự thảo (trước một năm ban hành), các bên liên quan tại Việt Nam đã chủ động tiếp cận và tìm hiểu thông tin với sự hỗ trợ từ Phái đoàn EU tại Việt Nam. Khi EUDR chính thức được ban hành, Bộ đã ban hành kế hoạch hành động, chỉ đạo các tỉnh triển khai thực hiện.

Nhiều địa phương cũng xây dựng kế hoạch riêng nhằm phổ biến quy định đến tận cấp xã. Nhờ sự phối hợp giữa chính quyền, doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và nông dân, Việt Nam được EU xếp vào nhóm “rủi ro thấp” trong việc tuân thủ EUDR – một lợi thế cạnh tranh đáng kể so với các quốc gia như Indonesia hay Brazil (nhóm rủi ro tiêu chuẩn). Tuy nhiên, được xếp vào nhóm rủi ro thấp không có nghĩa là được miễn trừ, Việt Nam vẫn phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu trong quy định.

TS. Nguyễn Trung Kiên cho biết thêm, EU không bắt buộc các hộ phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng yêu cầu chứng minh đất đó là hợp pháp. Việc xác minh từng mảnh đất riêng lẻ sẽ tốn thời gian, gây quá tải cho cấp xã, do đó có thể tính đến phương án xác minh ở quy mô khu vực hoặc vùng – giải pháp linh hoạt và khả thi hơn.

Thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã phối hợp với EU, các hiệp hội ngành hàng, tổ chức quốc tế như IDH, Forest Trends… để truyền thông và hướng dẫn các bên liên quan. Nhiều doanh nghiệp như Cienco, Vĩnh Hiệp, Intimex... đã và đang chủ động xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc, thu thập dữ liệu hộ nông dân. Việt Nam đang đi đầu trong việc thích ứng với EUDR, tuy nhiên để duy trì lợi thế và tiếp cận thị trường EU bền vững, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống dữ liệu và bản đồ ranh giới đất rừng, xây dựng nền tảng truy xuất thống nhất, đảm bảo nguồn lực duy trì và tăng cường phối hợp giữa các bên liên quan.

Theo ông Bạch Thanh Tuấn, đại diện Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam, trước khi EUDR được ban hành đã có hơn 30% diện tích cà phê của Việt Nam đạt các chứng chỉ bền vững như 4C, UTZ, Rainforest Alliance… Đây là nền tảng thuận lợi để ngành cà phê Việt thích ứng nhanh với quy định mới.

Ông Tô Xuân Phúc nhấn mạnh, mặc dù không phải tất cả các hộ trong ngành cà phê đều trực tiếp xuất khẩu sang EU, nhưng truy xuất nguồn gốc đang dần trở thành yêu cầu bắt buộc của các thị trường lớn. Điều này đòi hỏi nông hộ phải thay đổi phương thức canh tác theo hướng có thể truy xuất. Những thay đổi này không chỉ yêu cầu đầu tư về thời gian và công sức mà còn cần có sự hỗ trợ từ cộng đồng doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước.

Trước những khó khăn đó, các chuyên gia khuyến nghị cần sớm xây dựng các công cụ hỗ trợ đơn giản, dễ tiếp cận cho nông hộ như sổ tay ghi chép mùa vụ, biểu mẫu in sẵn cho các lần bán sản phẩm, hoặc ứng dụng di động thân thiện. Đồng thời, chính quyền địa phương cần có cơ chế xác nhận tính hợp pháp cho các trường hợp hộ đang sử dụng đất ổn định nhưng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đây là giải pháp cấp thiết nhằm giúp các hộ tiếp tục sản xuất ổn định và bảo vệ chuỗi cung ứng không bị gián đoạn.

Việc đáp ứng EUDR không chỉ là yêu cầu để giữ vững thị phần tại EU mà còn là cơ hội để cà phê Việt Nam tái cấu trúc theo hướng minh bạch, bền vững và có trách nhiệm hơn với môi trường – một bước đi tất yếu để hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Bích Hồng (TTXVN)
Cà phê Việt Nam bứt phá từ chất lượng và thị trường xuất khẩu
Cà phê Việt Nam bứt phá từ chất lượng và thị trường xuất khẩu

Khi giá cà phê liên tục ở mức cao và thị trường xuất khẩu tăng trưởng ấn tượng, ngành hàng cà phê Việt Nam đang bước vào giai đoạn “vàng” để bứt phá.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN