Thông tư này được áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc xác định chi phí bảo trì công trình xây dựng sử dụng vốn ngân sách nhà nước thường xuyên và vốn nhà nước ngoài đầu tư công.
Theo đó, chi phí bảo trì công trình xây dựng được xác định bằng dự toán bao gồm: chi phí thực hiện các công việc bảo trì định kỳ hàng năm; sửa chữa công trình; tư vấn phục vụ bảo trì, chi phí khác và chi phí quản lý bảo trì thuộc trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng công trình.
Chi phí thực hiện các công việc bảo trì định kỳ hàng năm quy định tại điểm a, khoản 3, Điều 35 Nghị định số 06/2021/NĐ-CP được xác định bằng tỷ lệ phần trăm nhân với chi xây dựng phí và chi phí thiết bị.
Bên cạnh đó, chi phí sửa chữa công trình được xác định bằng dự toán. Dự toán chi phí sửa chữa bao gồm: chi phí sửa chữa phần xây dựng công trình, sửa chữa phần thiết bị và một số chi phí khác có liên quan...
Trường hợp sửa chữa công trình có chi phí thực hiện từ 500 triệu đồng trở lên thì dự toán được xác định theo Thông tư hướng dẫn một số nội dung xác định và quản lý chi phí đầu tư xây dựng của Bộ xây dựng.
Nếu sửa chữa có chi phí thực hiện dưới 500 triệu đồng thì dự toán căn cứ theo khối lượng và đơn giá; tổng hợp dự toán chi phí.
Thông tư cũng nêu rõ, chi phí quản lý bảo trì thuộc quyền sở hữu của chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng công trình được xác định cụ thể. Nếu chi phí dưới 500 triệu đồng, xác định bằng 3,5% tổng chi phí thực hiện các công việc bảo trì định kỳ hàng năm...
Một trong những nội dung được chú ý tại Thông tư này là việc sửa chữa công trình có chi phí mức trên 500 triệu đồng thì phải lập báo cáo kinh tế kỹ thuật hoặc dự án đầu tư sửa chữa công trình và xác định bằng 3,5% tổng chi phí thực hiện công việc bảo trì định kỳ hàng năm, chi phí tư vấn phục vụ bảo trì công trình...