Băn khoăn về sự giao thoa giữa các câu hỏi phần I
Theo TS Trịnh Thu Tuyết, Giáo viên Hệ thống Giáo dục HOCMAI đánh giá về phần 1 của đề bài (với 4 câu hỏi phân loại theo mức độ nhận thức): “Hai câu đầu (câu 1 và 2) là câu hỏi nhận biết về 1 khía cạnh của nội dung văn bản. Câu 3 ở mức độ thông hiểu yêu cầu học sinh trình bày cách hiểu của mình về một hiện tượng cụ thể, từ đó khái quát lên những quy luật trong cuộc sống con người. Đây là câu hỏi đòi hỏi thí sinh không chỉ nhận thức được nội dung ý nghĩa của cấu trúc ngôn từ mà còn cần kết hợp với trải nghiệm cá nhân trong cuộc sống để hướng tới những vấn đề lớn lao, mang tính vĩnh hằng trong cuộc sống con người. Do đó câu hỏi thông hiểu ở mức độ khó".
“Câu hỏi số 4 của phần I là câu vận dụng cao yêu cầu học sinh rút ra bài học về lẽ sống qua hành trình từ sông ra biển của nước trong đoạn trích. Nếu kết hợp với vấn đề đặt ra trong câu nghị luận xã hội, học sinh có thể dễ dàng trả lời được câu hỏi số 4 về lẽ sống cống hiến”, TS Trịnh Thu Tuyết cho biết.
Đánh giá chung về câu hỏi này, TS Trịnh Thu Tuyết nhận định: “Các câu hỏi đọc hiểu vừa sức với học sinh, nhất là 2 câu đầu ở mức độ nhận biết, học sinh hoàn toàn có thể được điểm tối đa; câu hỏi vận dụng cao cũng đã có phần gợi ý từ câu lệnh của bài làm văn số 1; khó khăn duy nhất với học trò là câu 3 ở mức độ thông hiểu – và đây có thể coi là câu hỏi mang tính phân loại cho bài làm của thí sinh”.
TS Trịnh Thu Tuyết cũng phân tích về phần II của đề thi (gồm phần viết đoạn văn nghị luận xã hội và bài nghị luận văn học. Theo TS Trịnh Thu Tuyết: "Câu 1 có câu lệnh đã cung cấp đầy đủ và chuẩn xác các yêu cầu cụ thể để thí sinh có thể viết 1 đoạn văn với dung lượng khoảng 200 chữ về 1 khía cạnh của vấn đề rút ra từ đoạn trích của phần đọc hiểu, đó là “sự cần thiết phải biết sống cống hiến”.
“'Sống cống hiến' là một vấn đề quen thuộc trong cả cuộc sống và văn chương; chọn bình diện nhỏ của vấn đề là “sự cần thiết phải biết sống cống hiến” chính là yêu cầu học trò đề cập đến ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng, giá trị….của ý thức “sống cống hiến” đối với mỗi con người cũng như toàn xã hội. Một vấn đề rất lớn lao, rất ý nghĩa và cũng đồng thời quen thuộc trong thi ca, văn học, trong cuộc sống hàng ngày… hoàn toàn sẽ không làm khó cho học trò”, TS Trịnh Thu Tuyết nhấn mạnh.
TS Trịnh Thu Tuyết băn khoăn duy nhất là có thể học sinh sẽ gặp sự giao thoa giữa câu hỏi số 4 của phần đọc hiểu với khía cạnh cần bàn luận trong câu viết đoạn văn nghị luận xã hội; và đó cũng là nguyên nhân khiến bài viết ít có khả năng khơi gợi hứng thú và sự sáng tạo của thí sinh.
Nhận định về câu 2, TS Trịnh Thu Tuyết cho biết, câu nghị luận văn học vẫn sử dụng cấu trúc đề quen thuộc, trong đó câu lệnh thứ nhất là nội dung chính của bài nghị luận yêu cầu thí sinh cảm nhận về 3 khổ 3, 4, 5 trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh; câu lệnh thứ 2 mang tính chất khái quát và nâng cao khi yêu cầu học trò nhận xét về “vẻ đẹp nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh”.
Khổ 3 và 4 thể hiện những trăn trở, suy tư của người phụ nữ về sự bí ẩn, kì lạ, cũng là kì diệu của tình yêu khi liên tưởng tới sóng và gió; khổ 5 thông qua sóng, người phụ nữ bày tỏ một trong những xúc cảm mang tính đặc thù nhất của tình yêu đó là nỗi nhớ … Đó là những nội dung gắn với suy tư và xúc cảm thường gặp của người phụ nữ trong tình yêu, cũng đồng thời thể hiện “ vẻ đẹp nữ tính” trong hồn thơ Xuân Quỳnh nói chung và bài thơ Sóng nói riêng. Vấn đề không mới, càng không hề khó với học trò, và “vẻ đẹp nữ tính” là một nét đặc sắc rất phù hợp với đoạn thơ và bài thơ. Đó là những vấn đề mà thí sinh hoàn toàn có thể đồng thời phân tích trong quá trình cảm nhận, hoặc tách thành 2 luận điểm một cách mạch lạc như yêu cầu của đề”, TS Trịnh Thu Tuyết cho biết.
Học sinh trung bình có thể đạt 5 - 6 điểm
Cô Phạm Thị Thu Phương, giáo viên môn Ngữ văn tại Tuyensinh247.com cho biết: “Với đề thi này, học sinh trung bình nắm chắc kiến thức cơ bản có thể đạt được điểm 5- 6 đủ đảm bảo để xét tốt nghiệp, học sinh khá có thể đạt được trên dưới điểm 7, học sinh giỏi có thể đạt được điểm 8 trở lên. Câu 1 đưa ra vấn đề “sự cần thiết phải biết sống cống hiến” liên quan đến nội dung của văn bản đọc hiểu trong phần I.
Theo cô Thu Phương, để hoàn thành đoạn văn nghị luận xã hội, học sinh cần bắt đầu từ việc trình bày cách hiểu về lẽ sống cống hiến, phân tích được những những biểu hiện và ý nghĩa của lẽ sống cống hiến, lấy những dẫn chứng đời sống để minh họa, biết phê phán những biểu hiện trái ngược và những cách hiểu chưa chính xác về lẽ sống cao đẹp này, và cuối cùng, học sinh phải biết liên hệ bản thân để nhận ra những bài học nhận thức và bài học hành động ý nghĩa, thiết thực. Đây là tư tưởng đạo lí gần gũi, quen thuộc, không xa lạ với học sinh nên cũng không “làm khó” các em. Phổ điểm của câu 1 sẽ là 1,5 điểm.
Câu 2 yêu cầu học sinh cảm nhận về đoạn thơ trích trong bài thơ “Sóng” của nhà thơ Xuân Quỳnh (khổ thơ 3, 4, 5), từ đó nhận xét về một nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh- vẻ đẹp nữ tính. Theo cô Thu Phương, đề bài đòi hỏi học sinh không chỉ nắm chắc kiến thức về tác giả, tác phẩm; thành thạo kĩ năng phân tích, cảm thụ văn bản; mà còn phải thực sự hiểu về phong cách nghệ thuật của nhà thơ, nét đẹp riêng trong thơ của nữ sĩ. Học sinh cần tập trung làm nổi bật vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. Yêu cầu đặt ra với học sinh hoàn toàn nằm trong phần kiến thức cơ bản đã được học của chương trình Ngữ văn 12, nên phổ điểm sẽ khoảng 3 điểm. Những học sinh khá giỏi, có năng lực cảm thụ và khả năng diễn đạt tốt sẽ dễ dàng đạt được 4,0 điểm trở lên cho câu này.
Cô Thu Phương cũng lưu ý thêm, ở phần này, đề thi có phần bất ngờ với một số học sinh vì tâm lí bám sát đề minh họa một cách máy móc. Đề minh họa đưa ra yêu cầu phân tích một đoạn văn bản văn xuôi nhưng đề thi chính thức lại đưa ra yêu cầu cảm nhận về một đoạn văn bản thơ. Tuy nhiên, đây cũng là điều hoàn toàn bình thường và đã có những sự cảnh báo từ trước, để tránh tình trạng học tủ.
Đánh giá chung của những giáo viên Ngữ văn giàu kinh nghiệm cho thấy, đề thi Ngữ văn đảm bảo đúng các yêu cầu về nội dung, hình thức của một đề thi tốt nghiệp THPT.
“Đề thi vừa sức, quen thuộc, không có cả sự đột biến gây sốc cũng như sự mới mẻ khơi gợi hứng thú sáng tạo; phần làm văn không có những câu lệnh tạo dư địa cho phản biện và sự thể hiện quan điểm độc lập của thí sinh. Mức độ phân hóa của đề nếu có cũng chỉ xuất hiện trong câu hỏi đọc hiểu số 3, 4 và trong mức độ thực hiện các yêu cầu của phần làm văn”, TS Trịnh Thu Tuyết cho biết.