Hải quân Mỹ sở hữu một danh sách dài các tàu chiến, trong đó có những con tàu không may mắn, đứng đầu trong số này là USS William D. Porter, một tàu khu trục lớp Fletcher được đóng trong Thế chiến thứ II.
Thường được thuỷ thủ đoàn gọi là “Willie Die”, tàu Porter có lẽ là con tàu kém may mắn nhất trong lịch sử Hải quân Mỹ.
Gây tai nạn khi vừa nhận nhiệm vụ
"Willie Dee" từng là tên một con tàu khác của Mỹ. Nó được đặt theo tên thuyền trưởng William D. Porter, một người anh hùng trong cuộc Nội chiến Mỹ, từng ra khơi trên một tàu chiến vào năm 12 tuổi và nhập ngũ khi mới 15 tuổi.
Tàu Porter được hạ thủy vào ngày 27/9/1942 và đi vào hoạt động tháng 7/1943. Sau một thời gian hoạt động và huấn luyện, nó được lệnh rời Norfolk, gia nhập đội tàu hộ tống bao gồm thiết giáp hạm USS Iowa vào tháng 11/1943.
Porter rời cảng thực hiện nhiệm vụ thực sự đầu tiên của mình vào ngày 12/11/1943. Nhưng ngay trong khi đang rời đi, mỏ neo của nó đã vướng vào một tàu khu trục gần đó, xé toạc một số lan can của con tàu, một thuyền cứu sinh và một số bộ phận khác.
Bản thân không bị hư hại gì, tàu Porter đến điểm hội ngộ với tàu Iowa và một số tàu khu trục khác để thực hiện một sứ mạng quan trọng: hộ tống Tổng thống Franklin Roosevelt đến Tehran (Iran), tham gia hội nghị với các nhà lãnh đạo phe Đồng minh (gồm lãnh tụ Liên Xô Stalin và Thủ tướng Anh Churchill).
Để tối đa hóa an ninh, các con tàu phải duy trì trạng thái vô tuyến im lặng cho đến khi tới đích, chỉ liên lạc thông qua các đèn tín hiệu.
Chỉ một ngày sau khi bắt đầu hành trình, một vụ nổ bất ngờ dưới nước đã khiến toàn bộ đội hình phải tản ra né tránh vì tin rằng họ đang bị một tàu ngầm địch tấn công.
Nhưng hoá ra, vụ nổ lại là do một trong những thiết bị phóng điện sâu của tàu Porter, khi đó đã trang bị vũ khí, vô tình lăn khỏi con tàu.
Ngay sau sự cố, tàu Porter lại bị một cơn sóng lớn kỳ dị ập tới, cuốn một thuỷ thủ mất tích, làm một phòng nồi hơi bị ngập nước, và thuyền trưởng buộc phải sử dụng bộ đàm để thông báo cho tàu Iowa lý do họ bị tụt lại phía sau.
Phóng ngư lôi quên tháo ngòi vào "quân mình"
Vào ngày 14/11, Tổng thống Roosevelt, vốn là người đam mê hải quân, từng làm Thứ trưởng Bộ Hải quân, đã yêu cầu thị sát khả năng phòng không của tàu khu trục Iowa.
Chiếc thiết giáp hạm thả lên trời nhiều quả bóng bay làm mục tiêu giả định và các xạ thủ pháo trên boong chuẩn bị bắn hạ chúng. Một vài quả bóng bay dạt về phía tàu Porter, và thuỷ thủ của chiến hạm này cũng tham gia diễn tập bắn hạ mục tiêu.
Đội tàu khu trục sau đó còn diễn tập tấn công bằng ngư lôi, với toàn bộ ngòi nổ được tháo. Tàu Porter vào vị trí cách tàu bạn Iowa khoảng 5.000 mét và bắt đầu cuộc tấn công giả định. Đúng như kế hoạch, hai quả ngư lôi đầu tiên không rời ống phóng khi được bắn, nhưng quả ngư lôi thứ ba, với ngòi nổ bị quên tháo ra, đã phóng khỏi ống, hướng tới tàu Iowa.
Một cảnh hoảng loạn nổ ra trên tàu Porter. Nhưng do vừa bị nhắc nhở vì sử dụng bộ đàm trước đó, thuyền trưởng Porter không dám dùng bộ đàm để cảnh báo tàu Iowa mà chỉ phát lệnh cảnh báo bằng đèn tín hiệu.
Thật xui xẻo, trong lúc vội vàng và bối rối, tàu Porter đã gửi nhầm thông điệp, thay vào đó báo hiệu cho Iowa rằng con tàu khu trục này đang lùi với tốc độ tối đa. Nhận ra sai lầm, thuyền trưởng Porter đành một lần nữa vi phạm lệnh cấm dùng sóng vô tuyến, phát cảnh báo Iowa về mối đe doạ từ quả ngư lôi.
Tàu Iowa kịp chuyển hướng để tránh ngư lôi và vũ khí này đã phát nổ cách con tàu khoảng 2.700 mét về phía đuôi. Toàn bộ nòng pháo trên tàu Iowa lập tức được lệnh chĩa về phía tàu Porter vì lo sợ có âm mưu ám sát.
Tàu Porter được lệnh di chuyển đến Bermuda, tại đây thuỷ thủ đoàn bị bắt giữ. Sĩ quan phụ trách ngư lôi Lawton Dawson thừa nhận đã không tháo ngòi nổ và bị kết án 14 năm lao động khổ sai. Nhưng đích thân Tổng thống Roosevelt đã can thiệp, yêu cầu hủy bỏ bản án với Dawson và toàn bộ những người liên quan trong vụ việc.
Chính Tổng thống Roosevelt đã yêu cầu nhóm mật vụ di chuyển xe lăn của ông đến lan can tàu Iowa để có thể nhìn thấy quả ngư lôi khi nghe tin nó phát nổ.
Một cái kết không may
Sau sự cố với Iowa, tàu Porter được lệnh tới Thái Bình Dương. Trong một thời gian “cuộc sống” của nó diễn ra tương đối yên ả. Hoạt động ngoài khơi Alaska, con tàu tiến hành các cuộc tuần tra chống ngầm gần quần đảo Aleutian và thậm chí không kích quần đảo Kuril do Nhật Bản kiểm soát vào tháng 6/1944.
Vào cuối tháng 9/1944, USS William D. Porter được lệnh đến Tây Thái Bình Dương, nơi nó hộ tống các tàu khác và yểm trợ cho những cuộc bắn phá bờ biển trong chiến dịch giải phóng đảo Luzon của Philippines. Khu trục hạm này thậm chí còn bắn hạ được 4 máy bay địch và đánh chìm một số sà lan của phát xít Nhật.
Ngày 24/3/1945, tàu Porter gia nhập lực lượng hải quân tham gia Trận Okinawa, nơi lực lượng này có nhiệm vụ bắn phá bờ biển, tuần tra chống tàu ngầm, hộ tống tàu quét mìn và hỗ trợ phòng không cho lực lượng đặc nhiệm. Tàu cũng bắn rơi thêm 5 máy bay địch.
Nhưng sau đó vận rủi của Porter đã quay trở lại. Đầu tiên là khi nó vô tình bắn trúng tàu khu trục USS Luce bằng súng trong cuộc không kích mở đầu Trận Okinawa, Sự cố tiếp theo xảy ra vào ngày 10/6, khi một máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A “Val” của Nhật tìm cách thực hiện một cuộc tấn công liều chết nhằm vào tàu Porter ở ngoài khơi Okinawa.
Porter tránh được chiếc “Val”, khiến phi cơ này lao xuống biển, nhưng động lượng của máy bay và dòng hải lưu đã đẩy chiếc máy bay địch vào ngay dưới thân tàu Porter, nó phát nổ và lập tức đẩy Porter nhào lên mặt nước.
Trong suốt ba giờ đồng hồ, thuỷ thủ đoàn đã nỗ lực dập lửa và sửa chữa con tàu trong tuyệt vọng. Cuối cùng, do những thiệt hại quá lớn, họ được lệnh bỏ tàu.
Tuy vậy trong những giây phút cuối cùng, tàu Porter dường như đã gặp may mắn vì không một thuỷ thủ nào thiệt mạng hoặc bị thương nặng trong cuộc tấn công. Toàn bộ thủy thủ đoàn đã tìm cách sơ tán trước khi khu trục hạm chìm dưới làn sóng biển, kết thúc sự nghiệp của con tàu kém may mắn nhất trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ.