Những nấm mồ vô danh vẫn còn nhiều trong những nghĩa trang liệt sĩ, mà "Tên anh đã thành tên đất nước". |
Trong cuộc kháng chiến vĩ đại giành lại nền độc lập cho dân tộc, hàng triệu người trở về với những vết thương trên da thịt, hàng triệu người đã ngã xuống. Trong số đó có những người ra đi không để lại một bức thư, một tấm ảnh, chỉ để lại những khoảng trống vô tận trong trái tim những người ở lại.
Ngợi ca khí phách hiên ngang của những người chiến sĩ giải phóng quân đã hy vinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nhà thơ, liệt sỹ Lê Anh Xuân viết:
"Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ".
Họ chính là những con người đã thầm lặng hy sinh, để làm nên một "dáng đứng Việt Nam" kiên cường bất khuất của hôm qua và trường tồn mãi đến mai sau.
Những người mãi nằm lại chiến trường, mãi mãi tuổi 20... |
Chiến tranh đã lùi xa nhưng nỗi đau và những ký ức đau buồn của nó vẫn còn ám ảnh những người đang sống. Với những người còn sống trở về, đó có thể những nỗi đau tột cùng cả về thể xác lẫn tinh thần, về những người đồng đội đã nằm lại nơi chiến trường, mãi mãi tuổi 20 với những ước mơ dang dở... Còn với thân nhân những liệt sỹ, đó là khát khao cháy bỏng được mang trở về một dáng hình của người đã khuất.
Ngày 27/7/1947, trong bức thư Bác Hồ gửi nhân dân cả nước, Bác viết:
“… Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập.
Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh…
Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy…"
Từ đó, ngày 27/7 hàng năm trở thành Ngày Thương binh - Liệt sỹ, là dịp để mỗi người tri ân những đóng góp to lớn của các thương binh - liệt sỹ - những người đã “hy sinh cho Tổ quốc trường tồn”.
Và chủ đề chính của chương trình cầu truyền hình “Dáng đứng Việt Nam” một lần nữa khẳng định: thế hệ người Việt Nam hôm nay không bao giờ quên những công lao to lớn ấy. Ngọn lửa của lòng yêu nước được hun đúc, truyền lại từ thế hệ cha ông đi trước sẽ được tiếp nối, truyền lại cho thế hệ trẻ hôm nay.
Cầu truyền hình trực tiếp “Dáng đứng Việt Nam” được thực hiện tại 4 điểm cầu: Tượng đài Bắc Sơn (Hà Nội), Khu di tích lịch sử quốc gia 27/7 (Thái Nguyên), Thành cổ Quảng Trị, Bến Dược - Củ Chi (TP Hồ Chí Minh) và các phóng sự được thực hiện tại: Điện Biên, Quảng Trị, Côn Đảo, TP Hồ Chí Minh, Hà Giang, Đồng Nai, Quãng Ngãi, Quảng Bình,... Chương trình truyền hình trực tiếp vào 20h ngày 26/7 trên kênh VTV1.
Xác định đây là chương trình trọng điểm quốc gia nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ, trực tiếp Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam Trần Bình Minh chỉ đạo chương trình, nhà báo Tạ Bích Loan chỉ đạo sản xuất và lên ý tưởng kịch bản, êkip Ban thanh thiếu niên sản xuất; Đạo diễn Phạm Hoàng Nam chỉ đạo nghệ thuật, nghệ sĩ Trần Ly Ly biên đạo múa.
Ý tưởng xuyên suốt trong cầu truyền hình Kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ - Dáng đứng Việt Nam được gói trong từ khóa "danh tính". Theo nhà báo Tạ Bích Loan, người chịu trách nhiệm sản xuất chương trình, sở dĩ những người thực hiện chương trình chọn từ khóa này là bởi khi những người chiến sỹ hành quân, tất cả họ cùng hòa vào cùng đoàn quân tiến ra tiền tuyến để bảo vệ Tổ quốc.
Như Bác Hồ nói, họ đã làm thành một con đê ngăn những đợt lũ xâm lăng. Và khi họ mất đi, có những người có tên trên bảng ghi danh, nhưng cũng có người vô danh, chẳng để lại gì về bản thân. Vậy chúng ta, những thế hệ đi sau, có thể làm gì để tìm lại, ghi nhớ lại những công lao, những đóng góp của các thế hệ những anh hùng đó.
Những câu chuyện lần đầu được kể
Câu chuyện về liệt sỹ Nguyễn Kỳ Sơn - người đã hy sinh trong những trận đánh ác liệt kéo dài 81 ngày tại Thành cổ Quảng Trị. Năm 1970, chàng trai trẻ Nguyễn Kỳ Sơn thi đậu vào Học viện thuỷ lợi, khoa Thuỷ công. Trước đó năm 1969: Kỳ Sơn thi Đại học và đủ điểm đi học tại nước ngoài nhưng không đi. Tháng 9/1971, khi đang là sinh viên năm thứ hai, anh viết thư tình nguyện đi bộ đội. Trong cuốn nhật kí bằng thơ của mình, Nguyễn Kỳ Sơn tự hào: "Tuổi 18 lên đường đánh Mỹ/ Vui gì hơn anh lính tân binh/ Mũ sáng soi miệng cười chúm chím/ Ánh hào quang tỏa sáng niềm tin".
Quảng Trị mùa hè đỏ lửa năm 1972, đơn vị của Nguyễn Kỳ Sơn chốt giữ trong thành cổ đổ nát, khét lẹt mùi bom đạn, chết chóc. 81 ngày đêm giữ thành, tranh thủ giây phút ngớt tiếng bom đạn giữa hai trận đánh, Kỳ Sơn kê cuốn nhật kí lên gối ghi vội những dòng chữ thấm đẫm tình yêu thương, những nghĩ suy về tình yêu, giá trị cuộc sống. Ngày 15/8/1972, anh viết: "Ta yêu hòa bình, yêu màu xanh. Trong bom đạn tưởng chừng như không bao giờ dứt, một phút như thế này có ý nghĩa biết bao nhiêu. Ta càng quý cuộc sống biết bao nhiêu... Cho ta sống mãi trong phút giây hạnh phúc này".
Ngày 19/8/1972, sáu ngày trước lúc hy sinh, Nguyễn Kỳ Sơn viết: "Ngày mai tôi giáp trận. Rất có thể rằng tôi sẽ ngã xuống. Không can gì, đấu tranh là phải đổ máu, có máu mới có màu đỏ, có chiến thắng. Không sợ chết, không sợ hy sinh, gian khổ. Cuộc đời đẹp nhất là cuộc đời được tôi rèn".
Anh hy sinh ngày 25/8/1972. Một năm sau gia đình mới nhận được tin để rồi bắt đầy chuối hành trình 38 năm bố mẹ anh lặn lội tìm mộ con.
Những bà mẹ đợi con cả đời chưa thấy... |
Câu chuyện của hai người mẹ đợi con 30 năm dù con đã hy sinh trong trận chiến CQ88. Mẹ Dương Thị Tạo - mẹ của liệt sỹ Phan Văn Thiềng - E83 công binh hải quân, quê ở Đồng Trạch (Bố Trạch, Quảng Bình), bao năm nay vẫn một mình ở trong căn nhà cũ bên bờ biển đợi con về. Hỏi mẹ vì sao không về sống với các con gái của mẹ đang ở trong làng cho ấm áp mỗi khi trời giông gió, mẹ bảo: “Tui ở nhà ni để chờ thằng Thiềng về! Hắn đi bộ đội, người ta về cả rồi mà hắn vẫn chưa...”. Căn nhà nhỏ trên cát trắng đã xập xệ theo tháng năm qua và gió mưa. Mẹ vẫn không chịu về ở với người con trai út là anh Phan Văn Thoan, dù nhà anh chỉ cách nhà mẹ có vài chục mét, mẹ sợ rằng nếu mẹ đi chỗ khác lỡ nó về không có ai đón...
Ở một vùng cát trắng ven biển khác thuộc xã Hải Ninh (huyện Quảng Ninh, Quảng Bình), mẹ Nguyễn Thị Tròn, năm nay 84 tuổi, cũng ngày đêm mang nỗi đớn đau không khác gì mẹ Tạo. Con mẹ là anh Hoàng Văn Túy cũng đã nằm lại ở biển Trường Sa vào ngày 14/3/1988. Thương con thân xác nằm dưới biển khơi giá lạnh, mẹ Tròn với chồng là cụ ông Hoàng Nhỏ (85 tuổi) đã lập cây dâu làm hài cốt cho anh Túy, đưa vào an táng trong nghĩa trang liệt sỹ xã. Ngày giỗ anh, mẹ lại lụi cụi tới nghĩa trang thắp hương, đốt lửa mong cho thân xác con được ấm áp... Không biết bao ngày mẹ đi lang thang vô định trên các động cát trắng ngóng chờ con. Anh Hoàng Văn Phong, con trai mẹ, kể: “Những ngày đó anh em bầy tui phải chia nhau đi theo mạ kẻo sợ mạ nghĩ quẩn rồi xuống biển bị sóng cuốn”.
Năm 2009, có 8 liệt sỹ hi sinh trong trận Gạc Ma 1988 tìm được hài cốt, trong đó có 2 liệt sỹ ở Quảng Bình, nhưng hai mẹ đợi mãi mà không có tên con mình trong danh sách này...
Và những mối tình dang dở
Mối tình dang dở trong chiến tranh của liệt sỹ Đỗ Ngọc Lâm (quê ở Hải Dương, đơn vị Đại đội 506B, tiểu đoàn 704 đặc công Quảng Ngãi, hi sinh ngày 17/10/1974 tại Mộ Đức, Quảng Ngãi, hiện vẫn chưa tìm thấy mộ) với cô y tá Đỗ Ngọc Cẩm (năm nay 70 tuổi, quê ở Tịnh Hiệp, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi) sẽ khiến nhiều người xúc động.
Trong thời gian chiến đấu tại Quảng Ngãi, liệt sỹ Đỗ Ngọc Lâm đã gặp và yêu cô y tá Đặng Ngọc Cẩm, hai người quen nhau từ năm 1972 và đã hẹn ước sau khi thống nhất sẽ làm lễ cưới. Nhưng chiến tranh không phải trò đùa, người yêu của cô đã mãi mãi không bao giờ trở lại. Tất cả những gì cô giữ lại được là 4 bức thư chú gửi cho cô trong quá trình đi chiến đấu. Cô đã ở vậy từ đó cho đến nay chỉ bằng sức mạnh từ vỏn vẹn 4 bức thư của người đã mất. Đến nay, khi đã ở tuổi thất thập, niềm mong mỏi lớn nhất của cô Cẩm là tìm được về gia đình người yêu, tìm lại phần mộ của anh chỉ với vài manh mối nhỏ: Tên anh, tên vị và quê anh ở Hải Dương.