Mới đây, trong Dự thảo Báo cáo chính trị viết "... tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên". Việc Trung ương lần đầu tiên xác định "đối ngoại, hội nhập quốc tế" đặt ngang hàng với quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên đã mở ra một khung chiến lược toàn diện hơn cho công tác bảo vệ Tổ quốc, đánh dấu sự đổi mới về tầm nhìn chiến lược của Đảng trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và cạnh tranh địa chính trị, kinh tế toàn cầu ngày càng gay gắt.
Hội nhập quốc tế - chủ trương chiến lược và tầm nhìn của Đảng
Ký Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA), ngày 29/12/2020, tại London. Ảnh tư liệu: TTXVN phát
Hội nhập quốc tế là chủ trương chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: mở cửa, hợp tác và hội nhập là điều kiện tiên quyết để phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Quan điểm ấy được khẳng định nhất quán trong các kỳ Đại hội, như: Đại hội IX (2001) với chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”; Đại hội XI (2011) với quyết sách “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện”… Đặc biệt, trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, định hướng phát triển mới đã nêu rõ: “Phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá, con người là nền tảng; tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên”.
Đây không chỉ là sự kế thừa tư duy Đổi mới mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược, bản lĩnh chính trị của Đảng trong thời kỳ toàn cầu hóa và cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt.
Nhìn lại lịch sử, từ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, đất nước ta đã từng bước khẳng định vị thế là một nền kinh tế năng động, có độ mở hàng đầu khu vực. Đến nay, Việt Nam đã ký kết và thực thi 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Vương quốc Anh và Bắc Ireland (UKVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP)…; đồng thời mở rộng không gian hợp tác với hầu hết các đối tác chiến lược quan trọng trên thế giới.
Hiện Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hơn 195 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có toàn bộ 193 thành viên Liên hợp quốc; thiết lập khuôn khổ Đối tác chiến lược toàn diện với tất cả 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, đưa tổng số Đối tác chiến lược toàn diện của nước ta lên 14 quốc gia. Việt Nam là thành viên của hơn 70 tổ chức và diễn đàn quốc tế, trong đó giữ nhiều vai trò tích cực, như: Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Ủy viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (3 nhiệm kỳ), Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc (Khóa 77), Chủ tịch ASEAN (3 lần), Thành viên Hội đồng Chấp hành UNESCO…
Từ góc độ chính trị, hội nhập giúp Việt Nam nâng cao vị thế, uy tín quốc tế, mở rộng không gian đối ngoại, góp phần tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Về kinh tế, hội nhập đã trở thành "đòn bẩy" quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh. Về xã hội, hội nhập tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tiếp thu tri thức, khoa học công nghệ tiên tiến, góp phần cải thiện đời sống Nhân dân. Đó chính là minh chứng sinh động cho tầm nhìn chiến lược, sáng suốt của Đảng trong lãnh đạo tiến trình hội nhập quốc tế.
Thành quả và động lực mới từ hội nhập quốc tế
Công nhân Công Ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam đóng trên địa bàn Khu Công nghiệp Yên Bình, Phường Đồng Tiến, Thị xã Phổ Yên, Tỉnh Thái Nguyên sản xuất điện thoại thông minh. Ảnh tư liệu: Anh Tuấn/TTXVN
Trên thực tế, sau gần bốn thập kỷ Đổi mới, hội nhập quốc tế đã tạo bước phát triển nhảy vọt về quy mô, chất lượng và tầm ảnh hưởng của nền kinh tế Việt Nam.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 786,29 tỷ USD, Việt Nam trở thành một trong 20 nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới. Cán cân thương mại tiếp tục duy trì thặng dư 24,77 tỷ USD, năm thứ 9 xuất siêu liên tiếp; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lũy kế đạt trên 502 tỷ USD, với nhiều dự án quy mô lớn trong lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng sạch, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghiệp hỗ trợ.
Các tập đoàn toàn cầu như Samsung, Intel, LG, Apple… đang mở rộng sản xuất tại Việt Nam, đưa nước ta trở thành một "mắt xích" quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Cùng với đó, hàng loạt doanh nghiệp Việt Nam như Viettel, FPT, Vingroup, Thaco… đã vươn ra thị trường thế giới, khẳng định năng lực đổi mới sáng tạo và khả năng cạnh tranh quốc tế.
Hội nhập cũng góp phần mạnh mẽ trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến, chế tạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 88%, trong khi nhóm hàng nông sản chủ lực, như: gạo, cà phê, hạt điều, thủy sản tiếp tục giữ vững vị thế top đầu thế giới. Việt Nam đã trở thành một trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, nằm trong nhóm 20 nền thương mại hàng đầu, xếp thứ 32 trong top 100 giá trị thương hiệu quốc gia mạnh trên thế giới.
Trong lĩnh vực đối ngoại và hợp tác đa phương, Việt Nam tiếp tục thể hiện vai trò thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Nhiều sáng kiến của Việt Nam tại Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM… được đánh giá cao, đặc biệt là các sáng kiến về tăng trưởng xanh, chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) và chuyển đổi số bao trùm. Việt Nam đang tham gia sâu vào các cơ chế hợp tác khu vực như Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (IPEF), đóng góp tích cực cho Cộng đồng ASEAN.
Những kết quả trên đã khẳng định hiệu quả thực chất của hội nhập và thể hiện vị thế mới của Việt Nam trong cục diện toàn cầu đang biến đổi sâu sắc. Tuy vậy, quá trình hội nhập cũng còn không ít thách thức: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước còn hạn chế; cơ cấu xuất khẩu chưa bền vững; khả năng thích ứng với tiêu chuẩn cao về môi trường, lao động, chuyển đổi xanh còn yếu; nguy cơ phụ thuộc chuỗi cung ứng và tác động từ biến động địa chính trị toàn cầu gia tăng.
Trước thực tế đó, Đảng ta kiên định quan điểm: hội nhập phải gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; độc lập dân tộc gắn liền với tự cường, sáng tạo và hội nhập sâu rộng. Chính sự gắn kết đó đã giúp Việt Nam không bị cuốn theo dòng chảy toàn cầu hóa một cách bị động, mà chủ động định hình vị thế, lựa chọn con đường phát triển riêng, lấy nội lực làm gốc, hội nhập để phát triển nhanh hơn, bền vững hơn.
Phát huy sức mạnh hội nhập để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Dây chuyền sản xuất modul camera và linh kiện điện tử xuất khẩu tại nhà máy của Công ty TNHH MCNEX VINA, 100% vốn đầu tư của Hàn Quốc, trong Khu công nghiệp Phúc Sơn, tỉnh Ninh Bình. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Những kết quả to lớn đạt được trong quá trình hội nhập quốc tế thời gian qua đã khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tuy nhiên, bối cảnh thế giới thay đổi nhanh, phức tạp, khó dự báo, đòi hỏi phải có chiến lược mới để hội nhập hiệu quả, bền vững hơn.
Theo đó, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết xác định mục tiêu tổng quát là nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính đồng bộ và toàn diện của quá trình hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và phát triển nhanh, bền vững…
Mục tiêu cụ thể là: Hội nhập kinh tế quốc tế; Hội nhập quốc tế về chính trị, quốc phòng, an ninh; Hội nhập quốc tế về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, văn hóa, xã hội, du lịch, môi trường, giáo dục-đào tạo, y tế và các lĩnh vực khác; Nâng cao năng lực và bản lĩnh chính trị hội nhập quốc tế.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, Nghị quyết đề ra các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm, như: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đổi mới tư duy và hành động trong hội nhập; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thúc đẩy chuyển đổi số; đẩy mạnh hội nhập về chính trị, quốc phòng, an ninh theo hướng sâu rộng và hiệu quả, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; thúc đẩy hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, văn hóa, xã hội, du lịch, môi trường, giáo dục, đào tạo và y tế; nâng cao năng lực thực thi cam kết quốc tế, gắn với hoàn thiện thể chế, pháp luật trong nước; đồng thời nâng cao hiệu lực chỉ đạo, điều phối công tác hội nhập, phát huy vai trò chủ động của các địa phương.
Sau gần một năm triển khai, việc thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới đã đạt nhiều kết quả bước đầu quan trọng. Các bộ, ngành, địa phương đã chủ động xây dựng chương trình hành động, cụ thể hóa thành kế hoạch, đề án phù hợp với điều kiện thực tiễn. Công tác hội nhập kinh tế tiếp tục được đẩy mạnh; thu hút FDI đạt mức cao, tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao, chuyển đổi năng lượng, kinh tế số.
Cùng với đó, hội nhập về quốc phòng, an ninh, đối ngoại được triển khai đồng bộ, góp phần củng cố môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao uy tín quốc tế của Việt Nam. Đặc biệt, các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực khoa học-công nghệ, giáo dục, văn hóa, y tế, du lịch được mở rộng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Những kết quả này khẳng định tinh thần chủ động, sáng tạo, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị trong việc hiện thực hóa định hướng chiến lược mà Nghị quyết 59 đã đề ra.