Theo các cấp công đoàn cơ sở, qua hơn 7 năm thi hành Luật BHXH năm 2014 (hiệu lực từ 1/1/2016), vẫn còn tình trạng chậm đóng, trốn đóng BHXH ở nhiều địa phương, doanh nghiệp dẫn đến những rủi ro cho không ít người lao động (NLĐ) tham gia BHXH.
Cụ thể, về các hành vi bị nghiêm cấm, Điều 17 Luật BHXH năm 2014 quy định 8 hành vi bị nghiêm cấm đã tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật về BHXH, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ, người sử dụng lao động.
Tuy nhiên, trong thực thi Luật BHXH thời gian qua, một số hành vi, thủ đoạn của cá nhân, tổ chức làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền, lợi ích của NLĐ và thân nhân, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật cũng như chủ trương bảo đảm an sinh xã hội bền vững nhưng chưa được quy định trong Luật như: Hành vi mua, bán, cầm cố sổ BHXH hoặc quá trình tham gia BHXH dưới mọi hình thức; hành vi cộng tác, bao che, giúp sức cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, hoặc cản trở người khác thực hiện nghĩa vụ đóng, không thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về BHXH...
Vấn đề trên cơ bản đã được cơ quan soạn thảo Dự án Luật BHXH (sửa đổi) đưa vào quy định của Luật lần này, đó là:
“Điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm
1. Chiếm dụng tiền hưởng bảo hiểm xã hội.
2. Cản trở, gây khó khăn hoặc làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động.
3. Gian lận, giả mạo hồ sơ trong việc thực hiện bảo hiểm xã hội.
4. Sử dụng các quỹ bảo hiểm xã hội không đúng quy định pháp luật.
5. Truy cập, khai thác, cung cấp trái pháp luật cơ sở dữ liệu về bảo hiểm xã hội.
6. Báo cáo sai sự thật; cung cấp thông tin không chính xác về bảo hiểm xã hội; xuyên tạc về chính sách bảo hiểm xã hội.
7. Cộng tác, bao che, giúp sức cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội hoặc cản trở người khác thực hiện nghĩa vụ đóng, không thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về bảo hiểm xã hội.
8. Trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
9. Cầm cố, mua bán sổ bảo hiểm xã hội dưới mọi hình thức”.
Với nội dung Điều 8 dự thảo Luật BHXH như trên đã bổ sung khoản 7 và khoản 9 nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, thực tế hiện nay còn hành vi vi phạm của không ít đơn vị sử dụng lao động làm ảnh hưởng đến quá trình quản lý, điều hành chính sách của cơ quan nhà nước, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ tham gia BHXH, nhưng chưa có chế tài xử lý, đó là hành vi “chiếm dụng tiền đóng BHXH”.
Do đó, các cấp công đoàn kiến nghị bổ sung hành vi “chiếm dụng tiền đóng BHXH” vào Điều 8 Dự thảo Luật BHXH. Đây là hành vi mà các đối tượng dễ dàng thực hiện bởi quy định người sử dụng lao động trích từ tiền công, tiền lương của NLĐ để đóng BHXH thay cho NLĐ, nhưng NLĐ và cơ quan BHXH khó kiểm soát; hệ lụy của hành vi này gây thiệt hại cho Quỹ BHXH và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của NLĐ. Thực tế đã có không ít NLĐ rơi vào tình trạng “tiền mất, tật mang” vì không được hưởng các chế độ về chính sách BHXH như ốm đau, thai sản, dưỡng sức, thậm chí là cả chế độ hưu trí… trong khi hằng tháng NLĐ đã đóng phần BHXH của mình thông qua người sử dụng lao động.
Một vấn đề quan trọng nữa cũng được các cấp công đoàn kiến nghị là các chế tài xử lý đối với hành vi “chiếm dụng tiền đóng BHXH”.