Văn hóa soi đường, ‘tiếp lửa’ kháng chiến
Sau khi Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943 được ra đời, sự nghiệp cách mạng văn hóa dân tộc đã bước vào giai đoạn lịch sử, trở thành một bộ phận hữu cơ, đồng hành và phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc giành độc lập tự do. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa trở thành vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng, góp phần hiệu triệu, đoàn kết toàn dân đứng lên giành độc lập năm 1945 với cuộc cách mạng Tháng tám, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc.
80 năm văn hóa đồng hành cùng dân tộc, từ tiếng hát át tiếng bom đến bản hòa âm kiến thiết đất nước.
Khí thế cách mạng của những năm tháng hào hùng ấy còn lưu dấu mãi trong âm hưởng các ca khúc: Tiến quân ca (Tác giả Văn Cao), Diệt phát xít (Tác giả Nguyễn Đình Thi), Mười chín tháng Tám (Tác giả Xuân Oanh)... Sau khi nước nhà độc lập, công tác tuyên truyền, cổ động giúp tái thiết đất nước, xóa nạn mù chữ, mở mang dân trí.
Ngay trong giai đoạn cực kỳ cam go của cuộc kháng chiến chống Pháp, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), với phương châm “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”, công tác báo chí, thông tin, tuyên truyền được đẩy mạnh; các loại hình văn nghệ như ca khúc cách mạng, thơ ca, kịch nói… ra đời mạnh mẽ, cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu của quân và dân ta.
Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Bác Hồ đã khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.” Thực hiện lời căn dặn của Người, những người làm công tác văn hóa đã chẳng quản gian khó, hy sinh, truyền lửa sức mạnh tinh thần, góp phần chung vào thắng lợi của dân tộc với chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Từ tiếng hát át tiếng bom đến bản trường ca chiến thắng
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), văn hóa Việt Nam với đỉnh cao là các tác phẩm văn học, nghệ thuật sôi nổi phản ánh cuộc sống chiến đấu, lao động sản xuất ở miền Bắc và ý chí quật cường đấu tranh của đồng bào miền Nam. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc dần được định hình, với sự phát triển của các thiết chế văn hóa như thư viện, bảo tàng, rạp chiếu bóng, nhà hát… phục vụ nhân dân, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Sau trận pháo, trồi lên từ lòng đất, các chiến sĩ hát vang câu hát “Ta là con của núi non Trường Sơn…” trong bài “Bước chân trên dãy Trường Sơn” năm 1972.
Dù trong chiến tranh, vẫn có sự giao lưu, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa thế giới, nhất là khối các nước XHCN, làm phong phú thêm đời sống văn hóa dân tộc. Chi viện cho chiến trường miền Nam, các văn nghệ sĩ, nhà báo, chiến sĩ lên đường với khí thế hào hùng “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (“Theo chân Bác”, Tố Hữu). Các phong trào “tiếng hát át tiếng bom”, những trang viết, lời ca bám sát hơi thở của cuộc sống của các văn nghệ sĩ đã thôi thúc quân và dân ta giành thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, văn hóa, thông tin thực sự là một vũ khí tinh thần sắc bén, góp phần khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, hun đúc ý chí đấu tranh kiên cường và xây dựng niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Lực lượng văn nghệ sĩ, báo chí cách mạng đã hòa mình vào thực tiễn chiến đấu, “lấy bút làm gươm”, “lấy nghệ thuật làm vũ khí”. Các văn nghệ sĩ, nhà báo thực sự trở thành những “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa - tư tưởng”, trực tiếp tham gia chiến đấu hoặc sáng tác để cổ vũ tinh thần kháng chiến. Thơ ca, âm nhạc, kịch, hội họa, điện ảnh, báo chí… mang đậm hơi thở cuộc sống chiến đấu, phản ánh ý chí kiên cường, lòng dũng cảm và niềm tin vào thắng lợi.
Trong ký ức của nhà báo, nhà văn Phùng Huy Thịnh, một trong hàng nghìn sinh viên “tạm gác bút nghiên” lên đường vào Thành cổ Quảng Trị, những tháng ngày gian khổ, khốc liệt của chiến tranh vẫn còn in đậm, không bao giờ phai mờ. Nhưng giữa khói lửa đạn bom, có một sức mạnh diệu kỳ nâng đỡ tinh thần những người lính trẻ, đó là thơ ca và âm nhạc. Sau mỗi trận mưa bom bão đạn, khi ngoi lên từ hầm trú ẩn, họ lại quây quần đàn hát. Trong ký ức của ông, vẫn vẹn nguyên hình ảnh buổi văn nghệ “cây nhà lá vườn” với bảy người lính cùng đàn ca sau trận bom pháo.
Nhà báo Phùng Huy Thịnh đàn hát cùng đội Tuyên văn sư đoàn 325 (Đông Hà, Quảng Trị) vào năm 1973.
Nhà văn, nhà báo Phùng Huy Thịnh khắc ghi những ký ức những ngày chiến đấu oanh liệt tại Thành cổ Quảng Trị.
“Trên đường ra trận, tiểu đội nào cũng có cây guitar, sáo trúc, kèn mônica… giúp chúng tôi có thêm sức mạnh ngay trong thời khắc khốc liệt nhất. Bên cạnh đó, những bức thư từ gia đình, thư người yêu được chuyền tay đọc cho nhau nghe, trở thành sợi dây gắn kết, là tình cảm chung của cả tập thể. Gian khổ nơi chiến trường, nhưng chính lời ca, tiếng hát, những vần thơ đã nâng cánh cho chúng tôi vượt qua tất cả”, nhà báo Phùng Huy Thịnh nhớ lại.
Ông và nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm là đôi bạn thân thiết. Trong ký ức của ông, mỗi khi người bạn đọc thơ, cả đại đội như lặng đi, im phăng phắc, chăm chú lắng nghe. Cho đến nay, ông vẫn thuộc nằm lòng những câu trong bài “Thư mùa thu - gửi Thịnh”, một trong bốn tác phẩm đoạt Giải Nhất thơ của Báo Văn nghệ năm 1972: Dấu chân chúng mình chắc đã gặp nhau/ Mùa thu trong thành phố với rừng sâu/ Đất nước rộng ta đi nghe súng nổ/ Chiến trường nào ai đến trước đến sau…/ Tiếng súng Thịnh đang cùng tôi đuổi giặc/ Mùa thu này ta hát khắp Trường Sơn/ Ta hát lên là chúng nó chẳng còn/ Lửa bùng cháy khắp chi khu Cam Lộ/ Trăm tên giặc đã đền tội đó/ Mùa thu này ta hát khắp Trường Sơn.
Những câu thơ ấy không chỉ là lời nhắn gửi của một người bạn, mà còn là hơi ấm tinh thần, tiếp thêm niềm tin để những người lính trẻ vững bước trên con đường lửa đạn. “Có thể nói rằng thơ và âm nhạc, đặc biệt là âm nhạc, có giá trị vô cùng lớn, nó nâng đỡ tinh thần, biến sức mạnh tình cảm thành sức mạnh vật chất… để con người vượt qua gian khổ. Sau này, khi làm MC chương trình ‘Giai điệu tự hào’, tôi càng thấm thía rằng, rất nhiều ca khúc nhạc đỏ đã theo chúng tôi - những sinh viên, chiến sĩ bước vào trận mạc”, ông Thịnh chia sẻ.
Không chỉ thơ ca, âm nhạc, mà cả hội họa cũng hiện diện trên chiến trường. Nhiều người hoạ sĩ, người lính trẻ, như họa sĩ Lê Duy Ứng, Trần Luân Tín… đã dùng nét vẽ để ghi lại quá trình chiến đấu… Trong những năm làm việc phụ tá cho Giáo sư - Bác sĩ Tôn Thất Tùng tại bệnh viện Việt Đức từ năm 1970 đến năm 1975, họa sĩ Văn Dương Thành (sinh năm 1951, Hà Nội) đã có dịp chứng kiến các cuộc phẫu thuật, các y bác sĩ khẩn trương cứu người dưới hầm của bệnh viện Việt Đức.
Bằng trái tim nhạy cảm của một người phụ nữ, bà đã khắc họa khoảnh khắc đặc biệt ấy trong bức tranh “Trong hầm mổ” (1974): Các y sĩ tập trung mổ cấp cứu, quân trực nghe điện thoại, cáng thương liên tục đưa thêm bệnh nhân vào trong bầu không khí căng thẳng, vội vã.
Họa sĩ Văn Dương Thành khắc hoạ lại hình ảnh những con người thầm lặng phục sự Tổ quốc trong những ngày “hoa lửa” đã qua.
“Mỹ thuật cũng như các loại hình nghệ thuật khác là một cách ghi sử, chép sử bằng màu sắc, đường nét, phản ánh những thăng trầm lịch sử của quê hương. Người họa sĩ, nhà văn, nhạc sĩ… đều là con của đất nước, đem tình yêu thương và xúc cảm của mình để thuyết phục người thưởng thức. Nghệ thuật giúp tâm hồn con người vượt qua bao gian khó… Chúng tôi từng đi cùng các đội thanh niên xung phong, bộ đội, đơn vị làm đường, vừa vẽ tranh, dạy vẽ, vừa biểu diễn văn nghệ, cùng lao động với họ. Tình cảm kính mến, sự đồng cảm ấy thấm sâu trong trái tim người nghệ sĩ. Khi cầm bút, cảm xúc tự nhiên tuôn trào. Nếu không có những trải nghiệm thực tế ấy, nét vẽ khó mà truyền cảm và sâu nặng. Người nghệ sĩ được đồng hành với quê hương, cha mẹ, dùng tri thức, ngòi bút, màu sắc của mình để ghi lại những giây phút hào hùng, chan chứa tình thương yêu của thế hệ trước, trao lại cho thế hệ hôm nay”, họa sĩ Văn Dương Thành trải lòng.
Sự trưởng thành của ngành văn hóa trong giai đoạn này thể hiện bản lĩnh chính trị, sự kiên cường, linh hoạt, khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Không chỉ là công cụ tuyên truyền, đấu tranh, văn hóa còn thực sự là một nguồn sức mạnh nội sinh mạnh mẽ, cổ vũ, thôi thúc quân và dân ta đánh thắng giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước. Nhiều văn nghệ sĩ, nhà báo, nhà quay phim đã ngã xuống trên các chiến trường để lại cho chúng ta những trang viết, tác phẩm, thước phim tư liệu vô giá. Máu của họ đã tô thắm truyền thống yêu nước hào hùng của dân tộc ta và ngành văn hóa.
Văn hóa Việt Nam đã góp phần to lớn cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ viết nên những bản trường ca vĩ đại của dân tộc trong thế kỷ 20. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV nhận định: “Văn học, nghệ thuật nước ta xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn học, nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay”.
10 năm hàn gắn và kiến tạo đất nước
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, Bắc - Nam sum họp một nhà, văn hóa tiếp tục giữ vai trò nền tảng tinh thần của dân tộc, đi đầu trong hàn gắn vết thương chiến tranh, thúc đẩy tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế; truyền đi tinh thần lạc quan, bảo vệ và làm mới những giá trị cốt lõi, tạo thành sợi dây kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai. Dự báo và định hướng những vấn đề bất cập của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp để mở đường cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng vẫn luôn coi trọng công tác lý luận trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ để định hướng hoạt động thực tiễn. Các luận điểm lớn về xây dựng nền văn hóa mới được thể hiện rõ trong văn kiện Đại hội IV và V của Đảng với quan điểm xuyên suốt văn hóa, văn nghệ là bộ phận hữu cơ của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương xây dựng nền văn hóa mới gắn với việc hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa được triển khai đồng bộ.
Toàn ngành đã tập trung phát triển đời sống văn hóa cơ sở, mở rộng phong trào văn hóa quần chúng; xây dựng thiết chế văn hóa từ trung ương đến địa phương, ban hành pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích. Thành tựu văn hóa, văn nghệ giai đoạn này khá toàn diện: Văn học có nhiều sáng tác mới phản ánh cả niềm vui và trăn trở hậu chiến; sân khấu, âm nhạc, điện ảnh phát triển với nhiều tác phẩm tiêu biểu; báo chí, xuất bản được thống nhất và mở rộng; phong trào thể dục thể thao, hoạt động mỹ thuật, tranh cổ động… đều phục vụ tích cực nhiệm vụ chính trị và đời sống nhân dân.
Trong 10 năm sau thống nhất, mặc dù còn nhiều thách thức, lĩnh vực văn hóa Việt Nam đã chuyển từ văn hóa kháng chiến sang văn hóa kiến quốc, đạt bước phát triển mới, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa và bồi đắp nền tảng tinh thần của đất nước.