Rời TP Hồ Chí Minh, chúng tôi đi theo quốc lộ 1A qua thành phố Biên Hoà (Đồng Nai), đến ngã 3 Trị An rồi rẽ trái để vào Khu bảo tồn thiên nhiên văn hóa Đồng Nai (hay còn gọi là rừng Mã Đà – Trị An). Khu bảo tồn thiên nhiên này cách TP Hồ Chí Minh khoảng 130 km bằng đường bộ. Đây không chỉ là nơi bảo tồn các loại động thực vật quý, hiếm của khu vực miền Đông Nam Bộ mà còn là nơi lưu dấu tích lịch sử của cha ông trong cuộc chống Mỹ cứu nước - Chiến khu Đ hay căn cứ Mã Đà. Chị Nguyễn Thị Thủy, hướng dẫn viên của Khu bảo tồn thiên nhiên văn hóa Đồng Nai, niềm nở đón tiếp chúng tôi khi xe vừa đến.
Với kinh nghiệm hơn 10 năm làm hướng dẫn viên, đưa hàng ngàn du khách ghé thăm Trung ương Cục miền Nam nhưng chị bảo “lần nào có khách về thăm Trung ương cục miền Nam là chị lại có những cảm giác rất lạ”.
Theo chị Thủy, trong kháng chiến chống Mỹ, sau phong trào Đồng Khởi năm 1960, tình hình và cục diện đấu tranh cách mạng ở miền Nam chuyển biến rất nhanh, từ đấu tranh chính trị chuyển sang kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; phong trào đấu tranh ở miền Nam chuyển thành cuộc chiến tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo thống nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng ở miền Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III quyết định giải thể Xứ ủy Nam Bộ và thành lập Trung ương Cục miền Nam có căn cứ địa ở Chiến khu Đ, trung tâm đặt tại rừng Mã Đà (nay thuộc xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai). Đây là nơi đứng chân xây dựng các cơ quan đầu não, xây dựng lực lượng kháng chiến và truyền tải những chỉ đạo của cách mạng miền Nam từ vĩ tuyến 17 kéo dài tới mũi Cà Mau.
Ngày 10/10/1961, Hội nghị lần thứ nhất Trung ương Cục miền Nam đã diễn ra tại Mã Đà dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Tại căn cứ này, Trung ương Cục đã xây dựng và kiện toàn bộ máy lãnh đạo; 12 cơ quan tham mưu cho lãnh đạo, trong đó có Thông tấn xã Giải phóng và Đài phát thanh Giải phóng. Ngoài ra, Trung ương cục miền Nam còn có nhiệm vụ xây dựng quân Giải phóng miền Nam, đón tiếp lực lượng cán bộ tập kết và chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho miền Nam, xây dựng hậu cần, tích lũy lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước…
“Tuy Trung ương Cục miền Nam trú đóng ở Chiến khu Đ một thời gian không lâu (1961- 1962), nhưng căn cứ kháng chiến này đã trở thành biểu tượng cho ý chí chiến đấu của quân và dân ta, trong đó có lực lượng phóng viên Thông tấn xã Giải phóng. Tại căn cứ Trung ương Cục miền Nam, cơ quan phải di dời nhiều nhất sau mỗi lần phát tin là cơ quan Thông tấn xã Giải phóng. Bởi mỗi lần Thông tấn xã Giải phóng phát tin về Tổng xã (Hà Nội) là quân địch tìm cách dò ra tần số thông tin, địa điểm phát tin và dội bom đánh phá nơi đó. Sau những lần bị thiệt hại, lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam đã chỉ đạo: Hễ Thông tấn xã Giải phóng phát tin là 11 cơ quan, ban ngành tham mưu khác chuẩn bị tinh thần di dời để tránh thương vong. Cứ như vậy, trong suốt thời gian trú đóng tại căn cứ Mã Đà, Thông tấn xã Giải phóng là đơn vị tham mưu phải di dời nhiều nhất để bảo toàn lực lượng”, chị Nguyễn Thị Thủy cho biết.
Hiện ngoài bia di tích tưởng niệm của khu căn cứ Chiến khu Đ, nhà bia di tích của Thông tấn xã Giải phóng trong khu căn cứ cũng là điểm tham quan của nhiều du khách khi đến đây. Sau khi tham quan tìm hiểu khu đài tưởng niệm và nhà bia trong khu căn cứ Mã Đà, chúng tôi được chị Nguyễn Thị Thủy hướng dẫn đi tham quan khu nghĩa trang liệt sỹ Mã Đà.
Chị Nguyễn Thị Thủy cho biết, khu nghĩa trang này được người dân địa phương gọi là “nghĩa trang không bia mộ”, bởi tại đây có 70 phần mộ liệt sỹ nhưng chỉ có 5 ngôi mộ là có tên. Tuy nhiên, trên thực tế, nơi đây đang chứa hàng ngàn hài cốt các liệt sỹ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
“Năm 1962, sau khi cơ quan Trung ương cục miền Nam chuyển lên Tây Ninh thì căn cứ Mã Đà là nơi đứng chân của quân y viện K72 (Bệnh xá K72) và quân chủ lực miền, trong đó có Sư đoàn 9 là sư đoàn chủ lực. Chỉ tính riêng Sư đoàn 9, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ có khoảng 12 vạn chiến sỹ đã anh dũng hy sinh trong khu vực khoảng 2 ha của rừng Mã Đà này”, chị Nguyễn Thị Thủy lý giải.
“Ngoài ra, tại Bệnh xá K72 (bệnh viện dã chiến của Trung ương Cục miền Nam), những thương bệnh binh, trong đó nhiều người bị sốt rét ác tính không qua khỏi đều được an táng tại nghĩa trang liệt sỹ Mã Đà. Vì vậy, cho đến nay, chúng ta cũng chưa thống kê được chính xác có bao nhiêu chiến sỹ đã nằm xuống tại vùng đất thiêng Mã Đà này. Bởi có nhiều chiến sỹ hy sinh trên khắp các mặt trận miền Đông Nam Bộ được đồng đội đưa về đây chôn cất, hẹn một ngày khi đất nước toàn thắng sẽ quay lại quy tập vào nghĩa trang liệt sỹ tập trung hoặc đưa các anh về với quê hương”, chị Thuỷ tiếp lời.
Theo chị Nguyễn Thị Thủy, do hết trận đánh này đến trận đánh khác, người này hy sinh đến người kia ngã xuống tại căn cứ Mã Đà nên hầu hết các mộ phần đều không có bia mộ ghi họ tên, địa chỉ liệt sỹ; có chăng chỉ khắc tên, địa chỉ vào khúc gỗ rồi cắm xuống, nhưng bom đạn cày đi xới lại, rồi mối xông, cháy rừng vào mùa khô thường xuyên xảy ra nên cũng xóa hết những dấu tích về các liệt sỹ. Vì vậy, nghĩa trang liệt sỹ Mã Đà không chỉ thờ cúng, tri ân 70 liệt sỹ mà nơi đây còn là nghĩa trang chung ghi công hàng ngàn chiến sỹ đã hy sinh khi trú đóng tại đây.
Chị Nguyễn Thị Thuỷ cũng đã kể rất nhiều câu chuyện xúc động về các chiến sỹ khi chiến đấu và hy sinh tại vùng đất thiêng Mã Đà này. Những câu chuyện đã “truyền lửa” cho thế hệ trẻ thêm lòng tự tôn dân tộc và trân quý những hy sinh của thế hệ cha ông đi trước để bảo vệ đất nước, bảo vệ nhân dân.