Ngày càng nhiều phụ nữ thành công trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. Cùng với việc ghi nhận thành tích của các nhà khoa học nữ, xã hội cũng cần chia sẻ với họ những khó khăn khi chọn con đường làm khoa học.
Tỏa sáng những tài năng nữ
Những năm qua, tỷ lệ phụ nữ tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH) không ngừng tăng. Theo Giáo sư, Tiến sỹ khoa học Phạm Thị Trân Châu - Chủ tịch Hội nữ trí thức Việt Nam, giai đoạn 2000 - 2010, tỷ lệ phụ nữ chủ trì đề tài khoa học cấp nhà nước đạt 20%. “Đây là một sự tiến bộ so với trước”.
Bác sĩ Nguyễn Thị Đức Hiền, Trưởng khoa Hồi sức cấp cứu nội - Bệnh viện Xanh Pôn (Hà Nội) luôn tận tụy với công việc. Ảnh: Dương Ngọc - TTXVN |
Với những nghiên cứu của mình, các nhà khoa học nữ đã đóng góp ngày càng tích cực vào sự phát triển chung của đất nước. Theo Tiến sĩ Hà Thị Thúy, Phó Viện trưởng Viện Di truyền nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), nhiều nhà khoa học nữ được đào tạo bài bản trong và ngoài nước về lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đã và đang làm chủ các phương pháp công nghệ sinh học hiện đại trong tạo giống và nhân nhanh giống cây trồng có năng suất, chất lượng cao, tăng khả năng cạnh tranh cho nông sản nước ta.
Trong số các nhà khoa học nữ phải kể đến PGS.TS Nguyễn Thị Trâm - niềm tự hào của giới khoa học nữ ngành nông nghiệp. Được ví là nhà khoa học gắn bó với cây lúa, chị đã thành công với việc lai tạo ra nhiều tổ hợp lúa lai hai dòng, trong đó có loại TH3-3 đã được chuyển nhượng cho một công ty với giá 10 tỷ đồng. Giống lúa này có nhiều ưu điểm: Thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao, chịu sâu bệnh tốt, chất lượng gạo ngon.
Lĩnh vực công nghệ cũng ghi nhận không ít thành tựu của các tài năng sáng tạo nữ. Đó là PGS. TS Lương Chi Mai, công tác tại Viện Công nghệ thông tin (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã có nhiều đóng góp cho việc tạo ra các hệ thống nhận dạng có hiệu quả ngay từ những năm 1980, khi lý thuyết nhận dạng vẫn còn mới mẻ ở nước ta. Đến nay, chị đã đạt được những thành công bước đầu trong việc số hóa tiếng Việt với những đặc trưng nổi bật của ngôn ngữ có thanh điệu… Cũng ở lĩnh vực này, PGS.TS Phan Thị Tươi (Đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh) tạo dấu ấn khi là một trong những người đi tiên phong ở lĩnh vực xử lý ngôn ngữ tự nhiên bằng máy tính, góp phần quan trọng vào việc hình thành hướng nghiên cứu về “xử lý ngôn ngữ tự nhiên và tiếng Việt”, nâng cao chất lượng dịch tự động song ngữ Anh - Việt… Hầu như lĩnh vực khoa học nào cũng có sự góp mặt của các gương mặt nữ và tỉ lệ phụ nữ có trình độ sau đại học đang thay đổi tích cực.
Theo thống kê của TƯ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (LHPNVN), trên toàn quốc, năm 2007, tỷ lệ nữ có trình độ Thạc sĩ là 30%, Tiến sĩ là 17%. Đến nay, con số này đã đạt 39,7% và 21,4%. Trong 5 năm (2007 - 2012), trong tổng số giáo sư, phó giáo sư được phong tặng có 10,27% giáo sư và 25,78% phó giáo sư là nữ. Chị em đã có nhiều công trình nghiên cứu làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, ứng dụng vào sản xuất và hoạt động thực tiễn đem lại lợi ích kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực.
Còn đó nhiều rào cản
Bên cạnh những khó khăn mà nam giới cũng gặp phải trong công tác nghiên cứu, chị em làm NCKH đôi khi phải đương đầu với những rào cản từ chính hoàn cảnh riêng của mỗi người. Theo bà Hoàng Thị Ái Nhiên, Phó Chủ tịch TƯ Hội LHPNVN, thách thức lớn nhất đối với phụ nữ làm khoa học là việc cân đối giữa công việc và gia đình, là làm sao để người phụ nữ có thể dồn hết tâm lực vào NCKH nhưng cũng phải có một gia đình hạnh phúc. Bởi, với thiên chức rất quan trọng là làm vợ, làm mẹ, thì cho dù có làm công tác gì, người phụ nữ cũng không thể sao nhãng việc gia đình, không thể không quan tâm chăm lo gia đình.
Cũng theo bà Ái Nhiên, ở nước ta, trong khi những bộn bề thường nhật gói gọn trong 2 chữ “việc nhà” lấy đi không ít thời gian của người phụ nữ thì các dịch vụ xã hội để chăm lo cho gia đình giúp chị em, nhất là người có con nhỏ đỡ gánh nặng việc nhà vẫn chưa phát triển. Đây là trở ngại không nhỏ ảnh hưởng đến khả năng tham gia công tác xã hội của phụ nữ nói chung và nhà khoa học nữ nói riêng.
Cùng những yếu tố chủ quan, một yếu tố khách quan ảnh hưởng tới tỷ lệ phụ nữ thành công trong lĩnh vực khoa học là “định kiến giới trong xã hội còn tồn tại dưới nhiều hình thức” - bà Ái Nhiên khẳng định. Việc khuyến khích con gái, em gái mình đi vào nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học cơ bản chưa phải là xu hướng của xã hội ta. Thấy làm khoa học phải lao tâm khổ tứ nên nhiều bậc cha mẹ muốn hướng con gái vào những nghề đỡ vất vả hơn.
Bên cạnh đó, theo nhiều nhà khoa học nữ, quy định phụ nữ nghỉ hưu sớm hơn nam giới 5 năm cũng là một yếu tố tác động tới quá trình NCKH của phụ nữ.
Cùng với những trở ngại chung đó, chị em làm NCKH ở một số vùng địa phương đặc thù còn gặp những khó khăn riêng. PGS. TS Lê Thị Thanh Nhàn, một trong 2 người đoạt giải thưởng Kovalevskaia năm nay bày tỏ tâm tư: “Tôi đang công tác tại một trường đại học ở miền núi. Hơn ai hết tôi thấu hiểu những khó khăn mà mình gặp phải. Đó là: Sự thiếu thốn trong môi trường học thuật, cơ hội được tham gia những nhiệm vụ khoa học. Ngay ở trường tôi cũng có những chị năng lực rất tốt nhưng vì chưa có cơ hội nên thành công chưa đến được với họ”. Chia sẻ thực tế này, một lãnh đạo của TƯ Hội LHPNVN thừa nhận: “Làm nghiên cứu đòi hỏi phải có hệ thống thiết bị thí nghiệm, tài liệu tra cứu đầy đủ và các dịch vụ xã hội phục vụ cuộc sống. Trong khi đó, miền núi, vùng cao rất thiếu thốn những điều kiện này. Đó là chưa kể ở miền núi định kiến giới còn nặng nề hơn, khiến việc phụ nữ làm khoa học cũng không được thuận lợi như ở các thành phố lớn”.
Trước nhiều trở ngại còn hiện hữu, nếu nhận được chia sẻ nhiều hơn từ phía gia đình và xã hội, phụ nữ có thể đạt được nhiều thành công trong NCKH.
Mạnh Minh