Ngày voi thế giới 12/8: Gắn kết toàn thế giới để cứu voi

Loài voi sinh sống tại Việt Nam được xếp vào bậc nguy cấp trong danh mục sách Đỏ của IUCN, bậc cực kỳ nguy cấp theo Sách Đỏ Việt Nam và nằm trong Phụ lục I của Công ước CITES. 

Chú thích ảnh

  

Chú thích ảnh
 Infographic do Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học cùng với tổ chức WWF Việt Nam thực hiện.

Trong khoảng gần hơn 30 năm trở lại đây, số lượng voi ở Việt Nam suy giảm nhanh. Hiện chỉ còn khoảng 124 đến 148 cá thể voi hoang dã, 91 voi nuôi. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do môi trường sống của voi ngày càng bị thu hẹp.

Theo nghiên cứu của Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), những năm trước đây voi có vùng phân bố khá rộng từ Lai Châu dọc dãy Trường Sơn tới Bình Phước, Tây Ninh và một số tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ như Bình Thuận, Ninh Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu. 

Tài liệu điều tra 2001 – 2002 cho thấy các tỉnh Lai Châu, Thanh Hóa, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Gia Lai, Lâm Đồng và một số nơi khác hầu như không còn theo Sách Đỏ Việt Nam. 

Trong khoảng gần hơn 30 năm trở lại đây, số lượng voi Việt Nam nói chung và voi Tây Nguyên suy giảm nhanh theo từng năm. 

Những năm 1990, ước tính số voi hoang dã của Việt Nam còn khoảng 1.500 - 2000 cá thể. Tuy nhiên, hiện nay, Việt Nam chỉ còn khoảng 124 đến 148 cá thể voi hoang dã, phân bố trên 8 tỉnh bao gồm Sơn La, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Đắk Lắk, Đắk Nông, Đồng Nai và Bình Phước. Trong đó, chỉ có 3 sinh cảnh còn trên 10 cá thể voi là VQG Pù Mát và vùng phụ cận (tỉnh Nghệ An) còn 13 – 15 cá thể; VQG Cát Tiên, Khu BTNN và Văn hóa Đồng Nai, Công ty Lâm nghiệp TNHHMTV La Ngà (tỉnh Đồng Nai) còn 14 cá thể; và VQG Yok Đôn (tỉnh Đắk Lắk) còn khoảng 80-100 cá thể. 

Bảo tồn voi là vấn đề được Việt Nam quan tâm, thể hiện qua các chương trình, đề án, kế hoạch hành động bảo tồn voi từ rất sớm. Tuy nhiên, những nỗ lực này được đánh giá là vẫn chưa đủ để ngăn đà suy giảm của quần thể voi. 

Từ những năm 90, theo Quyết định số 1204/NN-LN-QĐ ngày 16/7/1996 của Bộ NN&PTNT, Chương trình hành động bảo tồn voi Việt Nam giai đoạn 1996 -1998 đã được thực hiện. Theo đó, mục tiêu của chương trình là bảo tồn voi tại các vùng trọng điểm tỉnh Đắk Lắk thông qua các hoạt động như rà soát lại hệ thống rừng đặc dụng, xây dựng mới các khu bảo tồn thiên nhiên, tăng cường đầu tư, trợ giúp kỹ thuật để đảm bảo an toàn cho nơi sống của voi; xây dựng, bổ sung những quy định pháp luật nhằm ngăn chặn việc săn bắt, mua bán động vật hoang dã và các sản phẩm liên quan; chỉ đạo các địa phương giải quyết cụ thể những vụ xung đột voi với người; tuyên truyền bảo tồn voi trên phương tiện thông tin đại chúng…

Nối tiếp là kế hoạch hành động khẩn trương bảo tồn voi đến năm 2010 theo Quyết định số 733/QĐ-TTg ngày 16/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Sau 5 năm triển khai thực hiện, kế hoạch này cũng thu được một số kết quả, trong đó có việc xây dựng hoàn thiện Dự án bảo tồn voi tại các tỉnh có số lượng quần thể voi lớn nhất là Đắk Lắk, Đồng Nai và Nghệ An; đồng thời thành lập Trung tâm bảo tồn voi Đắk Lắk nhằm hỗ trợ công tác chăm sóc, hỗ trợ sinh sản cho đàn voi. 

Tiếp đến, năm 2012 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 940/QĐ-TTg ngày 29/7/2012 về Phê duyệt Kế hoạch hành động khẩn cấp đến năm 2020 để bảo tồn voi ở Việt Nam. 

Tháng 5/2013, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tổng thể bảo tồn voi Việt Nam giai đoạn 2013-2020” tại Quyết định số763/ QĐ-TTg, với tổng kinh phí khái toán 278 tỷ đồng, từ ngân sách nhà nước và các tổ chức, cá nhân nước ngoài tài trợ. 

Chú thích ảnh
Khách du lịch cưỡi voi tại Khu du lịch Bản Đôn. 

Ở cấp địa phương, Đắk Lắk vào cuộc khá sớm, năm 2010, UBND tỉnh phê duyệt Dự án Bảo tồn voi tại Đắk Lắk giai đoạn 2010-2015 với tổng kinh phí 61 tỷ đồng. Dự án được triển khai nhằm quản lý bền vững quần thể voi hoang dã, phát triển đàn voi nhà, bảo tồn bản sắc văn hoá bản địa, tuyên truyền giáo dục về môi trường sinh thái. 

Đến năm 2013, UBND tỉnh phê duyệt “Dự án khẩn cấp bảo tồn voi tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020” với tổng kinh phí gần 85 tỷ đồng (thay cho Dự án trước đó). 

Theo nhận xét của các chuyên gia, so với nhiều loài khác, chính sách bảo tồn voi thể hiện rõ cam kết của nhà nước khi bố trí cả nguồn lực tài chính và con người, nhưng hiệu quả chưa cao vì nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là thiếu dữ liệu đầu vào, cho đến nay, các cơ quan bảo tồn vẫn chưa có số liệu chính xác về quần thể voi Tây Nguyên. Phương pháp thống kê số lượng voi chủ yếu qua quan sát bằng mắt thường hoặc dấu chân và chưa có kinh phí để sử dụng phương pháp phân tích ADN (ước tính trung bình 3000 USD/mẫu).

Theo thông tin từ Trung tâm Bảo tồn Voi Đắk Lắk và VQG Yok Đôn, một số trường đại học nước ngoài và một vài tổ chức bảo tồn quốc tế sẵn sàng hỗ trợ tài chính để phân tích AND voi nhưng kinh phí chỉ đủ cho số lượng mẫu không lớn nên số liệu không thể toàn diện. 

Cùng với đó, các chính sách vẫn theo hướng đơn nhất, chưa huy động được sự vào cuộc của chính quyền các cấp từ xã, huyện, tỉnh và đặc biệt của các chủ rừng gồm các công ty lâm nghiệp, ban quản lý các rừng phòng hộ, cộng đồng người dân địa phương. Người dân ở các khu vực có voi sinh sống thường nghèo, sống phụ thuộc vào tài nguyên rừng, canh tác nông nghiệp trong hoặc gần rừng, khó có thể yêu cầu họ phải có ý thức bảo tồn voi khi chưa có chính sách hỗ trợ sinh kế.

Đặc biệt, việc phối hợp thực thi chính sách giữa các cơ quan quản lý chưa ăn khớp. Từ khi một quyết định chính sách được ban hành cho tới khi có hiệu lực trong thực tế là một quá trình rất dài và cần rất nhiều thủ tục. Đơn cử, theo Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk dù được tỉnh chấp thuận cấp kinh phí mua lại một cá thể voi nhà nhưng phải mất nhiều tháng thì số tiền mới được giải ngân và khi đó chủ sở hữu voi không đồng ý bán vì trượt giá. 

Theo đại diện PanNature, cả hoang dã và voi nhà đều đang đối mặt với rất nhiều nguy cơ có thể dẫn đến việc suy giảm quần thể nhanh chóng, thậm chí là tuyệt chủng. Bảo tồn voi, vì vậy là vấn đề cấp bách và cần huy động nguồn lực để thực hiện một cách bài bản, đồng bộ, có hiệu quả và bền vững.

Tin, ảnh: Thu Trang/Báo Tin tức
Gia Lai: Xuất hiện đàn voi rừng ở huyện biên giới Chư Prông
Gia Lai: Xuất hiện đàn voi rừng ở huyện biên giới Chư Prông

Sáng 26/6, UBND huyện Chư Prông (Gia Lai) đã có văn bản số 1178 về việc voi rừng hoang dã xuất hiện tại khu vực suối Mỹ, xã Ia Ga.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN